SKKN Nâng cao hiệu quả viết các bài văn miêu tả cho học sinh Lớp 5 thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng

Sử dụng bản đồ tư duy để khái quát kiến thức.

- Như chúng ta đã biết qua một số kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học làm cho các em hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm điều mà chúng tự suy nghĩ viết ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy, sử dụng bản đồ tư duy huy động tối đa tiềm năng bộ não, giúp học sinh học tập một cách tích cực, đó chính là biện pháp đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả.

- Việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho các em tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách tổng thể, khoa học chứ không phải học vẹt, học thuộc lòng. Học sinh hiểu bài, nhớ lâu, vận dụng tốt. Khối lượng kiến thức ngày càng tăng theo cấp số nhân. Vì thế sử dụng bản đồ tư duy rèn cho các em tư duy lôgic để có thể vận dụng vào thực hành giao tiếp nói, viết.

- Đặc biệt sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới, giúp học sinh
học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này cũng phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ mà còn có kĩ năng diễn đạt, hệ thống hoá kiến thức hay huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý và ghi chép, vận dụng kiến thức được lọc qua sách vở vào cuộc sống. Vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc có cách nhìn vấn đề có hệ thống, khoa học. Sử dụng bản đồ tư duy là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ, diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cụ thể hoá tối đa hoạt động viết và nói của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của mỗi em vừa đảm bảo được chuẩn mực cơ bản cả một thể loại văn bản vừa thể hiện được bản sắc cái tôi của mỗi em, trên cơ sở khai thác kinh nghiệm và hiểu biết của các em, cũng như những ý tưởng và ngôn từ mà các em đó chiếm lĩnh được.

doc 13 trang Thu Nga 01/10/2025 350
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Nâng cao hiệu quả viết các bài văn miêu tả cho học sinh Lớp 5 thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Nâng cao hiệu quả viết các bài văn miêu tả cho học sinh Lớp 5 thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng

SKKN Nâng cao hiệu quả viết các bài văn miêu tả cho học sinh Lớp 5 thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng
àm em nhớ mãi? Trong số những kỉ niệm ấy, em định nêu kỉ niệm nào?
- Cần chú ý HS, hai đề bài a- b, tả ngôi trường chỉ ở hai thời điểm nhất định, còn đề bài c lại có thể tả ngôi trường trong nhiều thời điểm khác nhau và những kỉ niệm của tuổi học trò có thể diễn ra trong một thời gian dài suốt gần năm năm học qua. 
- Qua đó, GV chốt: Cần đọc kĩ yêu cầu đề bài để xác định đúng đối tượng miêu tả.Cùng là một đối tượng miêu tả nhưng ở những thời điểm khác nhau thì trọng tâm tả cũng khác nhau.Khi miêu tả, phải chú ý chọn nét tiêu biểu nổi bật để khi đọc bài văn của các em, người đọc phải hiểu em đang tả đối tượng nào ?
	4. Giải pháp 4: Dựng đoạn và viết bài:
- Sau khi HS quan sát, tìm và ghi lại được những nét đặc trưng, tiêu biểu giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn và viết bài. Mỗi đoạn văn miêu tả một nội dung nhất định ( VD: giới thiệu hay tả bao quát đối tượng, tả từng mặt hay tả từng bộ phận của đối tượng, bộc lộ cảm xúc của người viết về đối tượng miêu tả). Nếu là tả người: chú ý HS dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, tính nết, hoạt động của chân tay, của mắt, của miệng... Nếu là tả cảnh: dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, hương thơm, mùi vị....có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để gợi ra đặc điểm của cảnh ở từng thời điểm khác nhau ( thời điểm hiện tại so với thời điểm trước đó và sau đó.)
- Cần hướng dẫn học sinh, để có được bài văn cuốn hút người đọc, các em phải đưa tình cảm, đưa tâm hồn, đưa hơi thở của mình vào trong bài văn. Miêu tả không phải tái hiện một cách khách quan, cứng nhắc mà còn phải bộc lộ được tình cảm, ý nghĩ của mình đối với đối tượng cần tả. Những bài văn thiếu cảm xúc, thiếu tâm hồn thường khô khan, không có sức truyền cảm đối với người đọc. Do vậy, ngoài việc quan sát kĩ đối tượng, có sự liên tưởng, tưởng tượng để bộc lộ cảm xúc của mình, thể hiện được mối quan hệ giữa người tả với đối tượng được tả. Cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. 
VD: Sống với bà, em thấy thế nào? ( Thấy bà gần gũi, chăm sóc chu đáo như bà tiên hiền hậu, mình muốn làm một điều gì đó cho đỡ vất vả). Được bà chăm sóc hàng ngày, em nghĩ gì? ( Tình cảm thương yêu gần gũi của bà như chắp cánh cho tôi vững bước trước cuộc đời.) Trong tiết học, tôi thường yêu cầu HS đưa ra những cảm xúc, nhận xét về một sự vật hay hiện tượng nào đó.Do vậy, bài văn của HS thường tránh được những nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc mà thấm đẫm cảm xúc của người viết. Tuy nhiên, tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả được bộc lộ một cách linh hoạt, có khi được thể hiện trực tiếp qua những từ miêu tả cảm xúc như: Em rất thích..., Em rất yêu,....Em thích nhất.....nhưng cũng có khi lại được thể hiện một cách gián tiếp qua cử chỉ, lời nói, việc làm mà người đọc phải tinh ý mới nhận ra được.
- Trong khi viết bài, GV chú ý HS sử dụng từ ngữ phù hợp, rèn luyện cách dùng từ, cách đặt câu và sử dụng các biện pháp tu từ đã học làm cho đối tượng trở nên gần gũi hơn, sinh động hơn và đáng yêu hơn rất nhiều. 
- GV cho HS quan sát các hình ảnh, clip video minh họa đan xen những câu hỏi gợi ý về cách diễn đạt thường được xen vào trong khi Hsquan sát hình ảnh và làm văn miệng, nếu HS chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật thì tôi gợi ý HS khác bổ sung, sửa chữa.VD: Một em nêu: Mái tóc đen nhánh, ôm lấy khuôn mặt hồng hào của cô thật dễ mến. Một em khác sửa lại là: Mái tóc đen nhánh, mượt mà như dòng suối, ôm lấy khuôn mặt trái xoan hồng hào của cô thật dễ mến.
Khi miêu tả sự vật, các em cũng so sánh rất sinh động, ví dụ:
- Ông mặt trời như quả bóng bay mềm mại bay trên không trung.
- Ông mặt trời như quả gấc chín đang từ từ nhô lên ở phía chân trời.
- Ông mặt trời như quả cầu lửa tỏa muôn nghìn màu sắc trông rất đẹp mắt.
Lúc này GV có thể cho HS quan sát một số hình ảnh mặt trời ở các thời điểm khác nhau.
	5. Giải pháp 5: Sử dụng máy soi để chấm, chữa bài học sinh:
- Đây là một việc làm rất quan trọng của giáo viên nhằm giúp HS thấy được cái hay, cái chưa được trong bài làm của mình để rút kinh nghiệm. Để phát huy hết vai trò, ý nghĩa của việc chấm, chữa bài, GV phải đọc kĩ bài làm của HS, gach chân lỗi sai, chỉ rõ đó là lỗi sai dùng từ, đặt câu hay diễn đạt....để HS sửa chữa. Lời phê của GV cần rõ ràng, ngắn gọn, vừa giúp HS nhận ra chỗ được, chỗ chưa được trong bài làm của mình vừa mang ý nghĩa động viên, khích lệ kịp thời.
- Trong tiết trả bài Tập làm văn, giáo viên dùng máy soi để chữa bài cho học sinh. Soi cho các em phát hiện những lỗi sai của bạn. Cho học sinh lên bảng chia sẻ bài nhận xét, phát hiện lỗi sai, cùng nhau sửa lỗi mắc phải và học tập những điều bổ ích trong bài viết. Kĩ năng này là kĩ năng khá quan trọng. Giáo viên ghi và phân loại ra những lỗi điển hình, tiêu biểu lên bảng, học sinh sẽ thảo luận tìm ra cách chữa lỗi. 
- Sau khi giúp HS sửa lỗi sai trong bài làm của mình, giáo viên trình chiếu một số bài viết tốt hoặc một số đoạn văn hay của học sinh trong lớp hoặc của một số tài liệu tham khảo. Học sinh sẽ nhận xét bài văn, đoạn văn hay ở điểm nào ? Vì sao? Qua đó phát triển khả năng tư duy nhận xét ở học sinh.
	- Đối với học sinh yếu, mức độ đòi hỏi không quá cao để tránh sự nhàm chán ở các em. Trong giờ dạy, nếu các em biết đặt một câu văn đầy đủ bộ phận hoặc có những nhận xét, câu trả lời tương đối phù hợp thì giáo viên phải có sự tuyên dương kịp thời để các em phấn khởi, thích thú học tập. Giáo viên phải đặc biệt quan tâm theo dõi để sửa chữa các lỗi sai ở bài viết của các em học sinh này.
III.2. Tính mới, tính sáng tạo
	1.Tính mới 
- Thế giới hôm nay đang chứng kiến biết bao điều kì diệu do con người tạo ra. Một trong những điều kì diệu ấy là sự góp mặt của công nghệ thông tin. Có thể nói công nghệ thông tin là một lĩnh vực đột phá có vai trò lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng làm thay đổi mạnh mẽ phương pháp, phương thức dạy – học nhất là khi nền giáo dục của nước ta bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của công nghệ thông tin. Và có lẽ chính vì vậy mà trong những năm gần đây việc ứng dụng CNTT vào dạy – học đã và đang trở thành một xu thế phát triển mạnh mẽ ở các trường học, cấp học.
 - Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy ưu điểm nổi trội của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong trong dạy học là giúp giáo viên nâng cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Những ngân hàng dữ liệu kiến thức khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc soạn giảng của giáo viên. Ngoài ra, các thầy cô không chỉ bó buộc trong khối lượng kiến thức hiện có mà còn được tìm hiểu thêm về những chuyên ngành khác như tin học và học hỏi các kỹ năng sử dụng hình ảnh, âm thanh trong việc thiết kế bài giảng. Với môi trường đa phương tiện đã phát huy một cách tối đa đa giác quan của người học. Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh hình, kênh chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy , dễ tiếp thu. Nhờ ứng dụng CNTT vào giảng dạy, giáo viên chủ động hơn trong kế hoạch bài giảng của mình, dễ dàng tìm kiếm các tài nguyên phục vụ bài giảng, tạo mạch liên kết giữa các đơn vị kiến thức tự nhiên, hợp lý hơn.
 - Tăng cường các hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy Tập làm văn nhằm đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động dạy học.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng đã nâng chất lượng viết văn miêu tả lên một cách rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập hơn, tự tin, hào hứng sôi nổi trong tiết học Tập làm văn. Học sinh đã dần được rèn luyện các kĩ năng quan sát, tìm ý và viết văn miêu tả giàu hình ảnh, sinh động hơn. Các em chủ động trong việc tiếp cận kiến thức của bài hoc, làm việc hăng say, yêu thích môn văn.
	- Giúp học sinh tiếp cận được với những phương tiện học tập mới, hiện đại. Giúp các em nhanh chóng bắt nhịp với cuộc sống thực tiễn phù hợp với thời đại công nghệ 4.0. 
	- Giúp học sinh tự tin trong học tập, đoàn kết với bạn bè qua việc được hợp tác trong nhóm. Các em viết văn tốt sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các em trong tương lai.
- Giáo viên lên lớp không vất vả khi truyền thụ kiến thức cho học sinh, đổi mới được phương pháp trong giảng dạy bài giảng trở nên gần gũi, sinh động và hấp dẫn với học trò, đổi mới cách đánh giá kết quả học tập của học sinh. 
2.Tính sáng tạo:
-Việc áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học còn làm thay đổi nội
dung và phương pháp truyền đạt trong giờ dạy. Nhờ các công cụ đa phương tiện của máy tính như văn bản, đồ họa, hình ảnh, âm thanh, hoạt cảnh giáo viên sẽ xây dựng được bài giảng sinh động thu hút sự tập trung của người học dễ dàng thể hiện được các phương pháp sư phạm như: phương pháp dạy học tình huống, phương pháp dạy học nêu vấn đề, thực hiện đánh giá và lượng giá học tập toàn diện, khách quan ngay trong quá trình học tăng khả năng tích cực chủ động tham gia học tập của người học.
 - Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học đã giúp học sinh được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn hẳn phương pháp đọc chép truyền thống. Ngoài ra, sự tương tác giữa thầy cô và học trò cũng được cải thiện đáng kể, học sinh có nhiều cơ hội được thể hiện quan điểm cũng như chính kiến riêng của mình. Điều này không chỉ giúp các em ngày thêm tự tin mà còn để cho giáo viên hiểu thêm về năng lực, tính cách và mức độ tiếp thu kiến thức của học trò, từ đó có những điều chỉnh phù hợp và khoa học.Hơn thế nữa, việc được tiếp xúc nhiều với công nghệ thông tin trong lớp học còn mang đến cho các em những kỹ năng tin học cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Đây sẽ là nền tảng và sự trợ giúp đắc lực giúp học sinh đa dạng và sáng tạo các buổi thuyết trình trước lớp, đồng thời tăng cường khả năng tìm kiếm thông tin cho bài học của các em. Các em sẽ làm quen được với các hình thức tự học như học online, học qua cầu truyền hình.
	- Mặt khác, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài dạy còn đưa các tiết Tập làm văn đến với học trò một cách gần gũi, tự nhiên, học sinh chủ động tiếp thu bài và viết bài một cách chân thật, sinh động và có sáng tạo theo cảm nhận được của riêng mỗi em.
- Việc rèn kĩ năng viết văn cho học sinh thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng giúp cho chất lượng môn Tập làm văn được nâng lên. Rèn cho học sinh biết cách quan sát, biết cách nghe, biết cảm nhận và ghi chép lại những điều cần thiết phù hợp với công văn 3969/ BGD ĐT đã triển khai đối với HS lớp 5 là tiếp cận dần với cách học Nghe - ghi, là nền tảng vững chắc cho các em học lên cấp học THCS.
Giáo viên được bồi dưỡng công nghệ thông tin, thường xuyên áp dụng vào bài giảng. Khai thác thông tin trên mạng Internet có hiệu quả, tự rèn kĩ năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị dạy học hiện đại.
	III.3. Phạm vi ảnh hưởng, khả năng áp dụng của sáng kiến:
	- Có khả năng áp dụng vào dạy cho học sinh ở lớp 5 nói riêng và các khối lớp khác trong phạm vi các trường Tiểu học nói chung. Ngoài ra cũng có thể áp dụng cho các môn học khác.
	Áp dụng các giải pháp trên, khối tôi đã lên chuyên đề môn Tập làm văn lớp 5 bài Luyện tập tả người, tuần 15 do tôi lên lớp. Chuyên đề chúng tôi đã thực hiện theo hướng nghiên cứu bài học. Tôi còn mạnh dạn áp dụng công văn 3799/BGDĐT để giúp học sinh tiếp cận dần với chương trình GDPT 2018 và là nền tảng để học sinh tiếp cận chương trình lớp 6.
	Chuyên đề được Ban giám hiệu và giáo viên trong trường đánh giá cao, có sức lan tỏa trong cả hội đồng sư phạm. Từ chuyên đề này, ngoài khối 5 thì giáo
viên khối 4 khi dạy Tập làm văn cũng có thể áp dụng được. Thiết nghĩ chuyên đề áp dụng các giải pháp mà chúng tôi lựa chọn không chỉ áp dụng trong trường tôi mà còn có thể áp dụng cho các trường trong huyện và thành phố.
	- Giáo viên đã phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của bản thân cũng như khuyến khích, truyền thụ cho học sinh kỹ năng viết văn tốt.
	- Tuyên truyền phụ huynh để cài các phần mềm ứng dụng để học tập.Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng đã nâng chất lượng viết văn miêu tả lên một cách rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập hơn, tự tin, hào hứng sôi nổi trong tiết học Tập làm văn. Học sinh đã dần được rèn luyện các kĩ năng quan sát, tìm ý và viết văn miêu tả giàu hình ảnh, sinh động hơn. Các em chủ động trong việc tiếp cận kiến thức của bài hoc, làm việc hăng say, yêu thích môn văn.
 III.4. Hiệu quả, lợi ích thu được từ sáng kiến:
- Đề tài không gây tốn kém về kinh tế chỉ cần giáo viên chịu khó tìm tòi các hình ảnh, các thông tin thích hợp trên mạng để đưa vào bài giảng nên rất có hiệu quả.
	- Trong quá trình giảng dạy, giúp học sinh viết các bài văn miêu tả giàu hình ảnh, biết lồng ghép cảm xúc tình cảm của mình vào bài viết đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS đặc biệt là những học sinh có năng khiếu về văn. Học sinh viết văn có sự sáng tạo, vốn từ phong phú, các em sẽ tự tin trong giao tiếp đây là yếu tố quyết định đến sự thành công trong cuộc sống. 
	- Giáo dục học sinh thêm yêu thích môn Tập làm văn và góp phần vào việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng việt.
- Học sinh yêu thích môn học Tập làm văn và yêu môn Tiếng Việt hơn, từ đó có hứng thú học môn Tiếng Việt hơn.
	- Kết quả kiểm tra cuối học kỳ I môn Tiếng Việt của lớp do tôi giảng dạy đạt được như sau:
Lớp dạy
Điểm từ 5-10
Điểm từ 7-10
5E
Số lượng
%
Số lượng
%
30
100
28
93,3
- Qua kết quả kiểm tra đã khẳng định chất lượng môn Tiếng Việt được nâng lên rõ rệt trong đó có phân môn Tập làm văn.
- Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng đã nâng chất lượng viết văn miêu tả lên một cách rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập hơn, tự tin, hào hứng sôi nổi trong tiết học Tập làm văn.Học sinh đã dần được rèn luyện các kĩ năng quan sát, tìm ý và viết văn miêu tả giàu hình ảnh, sinh động hơn.Các em chủ động trong việc tiếp cận kiến thức của bài hoc, làm việc hăng say, yêu thích môn văn.
	- Với kết quả của đề tài này, tôi mong được sự góp ý của các cấp lãnh đạo và
Hội đồng thẩm định sáng kiến để sáng kiến của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. Sự quan tâm chia sẻ của các bạn đồng nghiệp. Đặc biệt là đối với giáo viên cấp tiểu học có thể ứng dụng đề tài này vào việc dạy học môn Tập làm văn để tạo hứng thú và nâng cao kết quả học tập cho học sinh.
Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong được sự đóng góp ý kiến của Ban giám khảo . 
 Vĩnh Bảo, ngày tháng 01 năm 2024
 CƠ QUAN ĐƠN VỊ Tác giả sáng kiến
 ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 
	 	 ..
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BẢN CAM KẾT
I. Tác giả
 Họ và tên:  
 Sinh ngày: 
 Đơn vị công tác: ..
II. Đề tài nghiên cứu:
 “Nâng cao hiệu quả viết các bài văn miêu tả cho học sinh lớp 5 thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng.”
IV. Cam kết:
 Tôi xin cam kết Sáng kiến này là sản phẩm của cá nhân tôi. Nếu có xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu đối với một phần hay toàn bộ đề tài tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Phòng, Sở GD&ĐT về tính trung thực của bản cam kết này.
 Vĩnh Bảo, ngày tháng 01 năm 2024
 Người cam kết
 ..

File đính kèm:

  • docskkn_nang_cao_hieu_qua_viet_cac_bai_van_mieu_ta_cho_hoc_sinh.doc