SKKN Một số kĩ năng rèn đọc cho học sinh Lớp 1/5 trường Tiểu học Hiếu Thành, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh long
Học sinh lớp 1 đã chuyển từ giai đoạn hoạt động vui chơi ở mẫu giáo, sang giai đoạn hoạt động học tập. Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này có tác động lớn đến tâm lý của trẻ. Những hiểu biết về về tâm sinh lý của trẻ lớp 1 đã hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu, là những tín hiệu thay thế ngữ âm. Từ đây các em có khả năng tập tách từ thành tiếng, thành âm và chữ. Với lớp 1 điều quan trọng nhất là đọc, viết. Có đọc được tốt học sinh mới hiểu được nội dung văn bản và lên lớp trên học sinh mới học tốt được các môn học khác.
Hiện nay, ở nhà trường Tiểu học, việc rèn kỹ năng đọc đạt kết quả chưa cao. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân lớn nhất là cách thức về phương pháp rèn đọc chưa được coi trọng. Trên thực tế, nếu không có kỹ năng đọc thì học sinh không có điều kiện để học các môn học khác, không thể tiếp thu tri thức của nhân loại. Vì vậy, việc dạy đọc cho học sinh có ý nghĩa to lớn.
Rèn đọc tốt cho học sinh chính là công cụ tốt nhất để các em học tốt các môn khác. Đó chính là hành trang theo các em vào đời. để rèn đọc tốt cho học sinh đòi hỏi người giáo viên dạy lớp 1 phải có một phương pháp dạy tốt, lòng say mê nghề nghiệp và sự nhiệt tình, bền bỉ để giúp các em đọc tốt, đọc hay.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số kĩ năng rèn đọc cho học sinh Lớp 1/5 trường Tiểu học Hiếu Thành, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh long

yên/ /yê /- /nờ/ /yên/. + ươ ; /ương/ /ươ/ -/ngờ/ /ương/. + uô ; /uông/ /uô/ - /ngờ/ /uông/. 3.2.4. Phần đọc Đối với chương trình Tiếng Việt 1 - CGD quyển tập 1 không yêu cầu giải nghĩa từ và tìm hiểu nội dung bài đọc. Sang quyển tập 2 - 3 học sinh đọc, giải nghĩa một số từ và kết hợp tìm hiểu nội dung bài đọc. Nên yêu cầu quan trọng nhất đối với TV1 - CGD là học sinh đọc được âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài. Học sinh nắm âm để tìm và ghép vần, ghép âm với vần tạo thành tiếng. Chương trình TV 1 - CGD khác với chương trình hiện hành yêu cầu học sinh vẽ mô hình tiếng, đưa tiếng vào mô hình, đọc trơn, đọc phân tích. Cũng chính từ việc đọc phân tích nên học sinh nắm chắc cấu tạo của âm, vần, tiếng. Đọc đúng giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Đọc đúng giúp các em nói, viết, sử dụng ngôn từ một cách trong sáng có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng đọc mà còn phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú. Từ chỗ đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn tiến tới cho học sinh đọc được mức độ cao hơn (ngắt, nghỉ đúng nhịp, vần thơ, câu văn, đọc cao giọng, nhấn giọng để biểu đạt cảm xúc,...). Hướng dẫn học sinh đọc theo từng từ, cụm từ để luyện đọc từng câu chứ không đọc từng con chữ, từng chữ rời rạc. * Đọc thể thơ: Ví dụ 1: + Đọc bài “Con cò mà đi ăn đêm; TV1 - T3/Tr58 + Hướng dẫn để học sinh phát hiện được cách ngắt, nghỉ như sau: đối với dòng thơ 6 chữ ngắt theo nhịp 2/4; dòng thơ 8 chữ ngắt theo nhịp 4/4. Con cò /mà đi ăn đêm / Đậu phải cành mềm / lộn cổ xuống ao.// Ví dụ 2: + Bài: Con gà cục tác lá chanh”; TV1 - T3/Tr37 + Học sinh đọc và phát hiện được cách ngắt như sau: đối với dòng thơ 6 chữ ngắt theo nhịp 2 /2/ 2; dòng thơ 8 chữ ngắt theo nhịp 4/4. Con gà / cục tác / lá chanh / Con lợn ủn ỉn / mua hành cho tôi.// * Đọc văn xuôi: Ngoài việc hướng dẫn đọc đúng từ, cụm từ, ngắt hơi sau các dấu phẩy, nghỉ hơi sau dấu chấm. Cuối câu hỏi học sinh phải biết lên giọng, nhấn giọng những từ để hỏi. Ví dụ 1: + Bài “Đêm qua con nằm mơ” TV1 - CGD - T2/Tr105, giáo viên hướng dẫn để học sinh phát hiện cách đọc câu hỏi cần nhấn giọng ở từ để hỏi, lên cao giọng ở cuối câu. + Ô hay, làm sao mẹ lại biết con đánh mất cái gì, ở đâu mà tìm? Nếu câu có dấu chấm cảm ta phải đọc thay đổi giọng theo đúng ngữ cảnh và tình cảm của câu. Ví dụ 2: + Bài “Cái mũ” TV1- CGD - T2/Tr93 + Kia kìa! Mũ ở trên đầu bố kìa! Giáo viên dẫn dắt để học sinh biết ngắt, nghỉ hơi đúng ở một số câu dài giúp các em dễ hiểu nội dung câu, đoạn văn; biết đọc cao giọng ở cuối câu có dấu chấm cảm để biểu đạt được cảm xúc khi đọc. * Đọc văn vần: Học sinh đọc văn xuôi đã khó, đọc văn vần lại càng khó hơn. Khi đọc văn vần cần chú ý tiết tấu của đoạn văn. Tiết tấu là nhịp điệu của âm, ở sách Tiếng Việt lớp 1 có nhiều thể văn vần chúng ta thường gặp như: thơ lục bát, thơ đường, thơ 5 chữ, thơ 4 chữ, thơ tự do. Ở đây không phải thể thơ nào cũng giống nhau nên phải thay đổi theo tiết tấu của câu để ngắt, nghỉ hợp lí. Đọc đúng, đọc hay, đọc rành mạch nắm được ý cơ bản của bài văn, bài thơ, bài đồng dao, đọc lưu loát và bước đầu có thể đọc diễn đọc diễn cảm bằng đọc thành tiếng và đọc thầm, đọc chữ in và đọc chữ viết. Tôi chú trọng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn cho từng học sinh, kết hợp hình thức đọc theo nhóm để nhiều học sinh được tham gia và tham gia nhiều lượt đọc trong một tiết học. Xen kẽ đọc đồng thanh để tạo không khí lôi cuốn học sinh chậm tiến, học sinh hay rụt rè vào hoạt động học. Đảm bảo toàn bộ học sinh được tham gia luyện đọc và càng được đọc nhiều lần càng tốt (tùy theo bài để chọn cách đọc). 3.3. Giáo viên làm mẫu, đọc mẫu phải chuẩn xác Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên phải phát âm chuẩn xác. Tuy vậy, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không khéo léo, sẽ dẫn đến tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nên nhàm chán và không phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương pháp này khi thấy thật cần thiết, đó là khi các em học sinh dù qua hướng dẫn, không thể tự mình phát âm đúng. Khi vận dụng phương pháp đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn luyện cho các em biết kết hợp cả kĩ năng nghe và nhìn (nghe tiếng phát âm và quan sát môi, miệng, lưỡi của giáo viên). Hướng dẫn học sinh xác định nguyên âm và phụ âm: + Khi phát âm các nguyên âm: phải há miệng, luồng hơi đi ra tự do, có thể kéo dài. + Khi phát âm các phụ âm: phải ngậm miệng lại, bật môi cho luồng hơi thoát ra, luồng hơi đi ra bị cản, không thể kéo dài được. Bằng cách phát âm đó học sinh dễ nhận biết nguyên âm, phụ âm. Nhìn miệng bạn phát âm để nhận biết và nhận xét. Hướng dẫn học sinh xác định nguyên âm tròn môi và nguyên âm không tròn môi. + Khi phát âm các nguyên âm tròn môi (môi tròn). + Khi phát âm các nguyên âm không tròn môi (môi không tròn). Học sinh sai vần “at” đọc thành “ac” hoặc “ac” đọc thành “at”: “bờ cát” đọc thành “bờ các”; “tê giác” đọc thành “tê giát” giáo viên cần hướng dẫn như sau: + Vần /ac/: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi. + Vần /at/: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi. Học sinh sai lẫn dấu thanh (thanh nặng, thanh sắc, thanh huyền, thanh hỏi, thanh ngã). + Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu. + Những tiếng có thanh sắc: đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngắn, đọc nhanh, không kéo dài. Bằng cách hướng dẫn (như một vài ví dụ nêu trên) học sinh có thể dễ dàng phát âm và đạt hiệu quả cao. + Những tiếng có thanh ngã đọc hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao giọng. + Tiếng có thanh hỏi đọc dứt khoát, rõ ràng, không kéo dài, có thể kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên. + Đưa tiếng vào từ cụ thể để học sinh phân biệt: Ví dụ: đổ/đỗ hướng dẫn học sinh phân biệt “đổ rác” với “hạt đỗ”; ngả/ngã hướng dẫn học sinh đọc để phân biệt “ngả ba / ba ngã”. Hướng dẫn phân biệt vần “an và ang”. + Vần /an/: khi phát âm đầu lưỡi chạm vào chân răng. + Vần /ang/: khi phát âm đầu lưỡi hơi thụt vào trong. Ví dụ: bàn /bàng; phân biệt “cái bàn” với “quả bàng”; làn/làng – phân biệt “cái làn” với “làng quê”. Không những dùng lời nói để hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng đọc, giáo viên còn sử dụng những kí hiệu (động tác tay, vẽ kí hiệu ở phía trên góc trái của bảng lớp, ). Khi giáo viên đưa ra kí hiệu học sinh thực hiện, như vậy tạo cho học sinh kĩ năng quan sát, tập trung trong giờ học thành thói quen thường xuyên. Ví dụ: + Yêu cầu học sinh đọc theo bốn mức độ (to, nhỏ, nhẩm, thầm) giáo viên không dùng lời nói chỉ gắn nam châm vào kí hiệu để tất cả học sinh thực hiện. (Giáo viên vẽ kí hiệu các ô vuông thể hiện các mức độ): To nhỏ nhẩm thầm + Yêu cầu đọc đồng thanh (Giáo viên thực hiện động tác đưa hai tay từ trong ngực ra phía trước). + Yêu cầu đọc nhóm đôi (giáo viên chỉ dùng nam châm gắn vào kí hiệu N ở bảng lớp). 3.4. Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh. Rèn tính kiên trì cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng. Bản thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình thành tính cách ấy cho học sinh. Khi có được lòng kiên trì, học sinh sẽ vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao nhất. Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán nản, không muốn luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen. Ví dụ: “Em đã đọc được rồi đấy, em cố gắng lên nhé”; “Em đã đọc tốt hơn rồi, em cần cố gắng thêm tí nữa”; Được động viên như vậy, học sinh sẽ không nản lòng vì nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm được, bạn làm được thì mình cũng sẽ làm đượcTừ đó học sinh sẽ quyết tâm hơn. 3.5. Quan tâm rèn luyện cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn Tiếng Việt mà tôi luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết học khác, trong hoạt động tập thể Bởi vì những lúc vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất, những lúc này các em thường nói tiếng địa phương, nói lóng,...Vì thế bản thân tôi thường xuyên quan sát, để ý đến các em, phát hiện những lỗi phát âm, cách dùng từ chưa đúng, để kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh thói quen phát âm chuẩn, sử dụng tiếng phổ thông khi nói dù ở bất cứ nơi đâu. 3.6. Tuyên dương, khuyến khích học sinh Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với học sinh đọc tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em hứng thú, vui vẻ, tạo được không khí thoải mái. Còn đối với học sinh đọc còn chậm, hay quên tôi nhẹ nhàng động viên các em hãy luôn cố gắng chắc chắn các em sẽ làm được là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các lỗi mà các em mắc phải. Khi các em này có tiến bộ dù một chút tôi luôn khen ngợi, tuyên dương để các em có động lực và cố gắng hơn (VD: “Em đã phát âm đúng, cố lên em nhé”, “Em đã có tiến bộ hơn rồi, thầy khen em”...),. Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà tôi còn khen cả những em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp bạn hơn, hứng thú với công việc đó hơn. 3.7. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo môi trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần một cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng. Một số trường hợp, học sinh phát âm sai không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do các em chưa hiểu cách phát âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương (rượu - riệu; nếu - niếu; hươu - hiêu; hưu – hiu; hữu –hĩu; nêu – niêu,...). Đối với những trường hợp trên, trong mỗi bài dạy, khi có từ ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em thường nói sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm sai theo cách nói của địa phương. Với một số em cá biệt về phát âm, bản thân tôi đã gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và động viên để phụ huynh hướng dẫn thêm con em lúc ở nhà. Ngoài ra tôi còn trao đổi phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người trong gia đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là môi trường giáo dục cho các em khi ở nhà 4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc là một công cụ để học các môn học khác. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập tốt. Tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Chính vì vậy, để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả. Giáo viên cần đưa ra những biện pháp nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh từ kĩ năng đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài; nâng cao dần kĩ năng đọc hiểu từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Vì thế để môn tiếng việt của học sinh lớp 1 có kết quả cao. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập. Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham thích học, đọc bài. Vì vậy là giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn luôn cảm thấy nhẹ nhàng và thích thú. Giáo viên phải gần gũi yêu thương đọng viên kịp thời để học sinh có tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập, nhận thức rõ điều này tôi đã thực hiện 1 số biện pháp rèn cho học sinh lớp 1 để cho học sinh học tốt. Kết quả cuối học kì I so với đầu năm đã có tiến bộ rõ rệt, nhiều em tự giác học tập. đó chính là nguồn động viên tinh thần cho tôi trong công tác giảng dạy. TS Nữ Đọc đúng âm Đọc sai âm đầu Đọc sai vần Nói ngọng Đầu năm 19 8 SL TL SL TL SL TL SL TL 4 21 % 7 36 % 6 31 % 2 10,5 % Học kì I 19 8 11 57,8 % 6 31,5 % 1 0,52 % 1 0,52 % 5. KHẢ NĂNG NHÂN RỘNG: Sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã được thực nghiệm trong quá trình giảng dạy và đạt được kết quả khả quan. Sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng rộng rãi trong công tác chủ nhiệm lớp 1 ở bậc Tiểu học. TT Tên đồng nghiệp đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm của tôi Nhận định đánh giá Kí tên xác nhận 1 Nguyễn Ánh Thu .. .. 2 Nguyễn Thành Tâm C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: 1. Kết luận: Với học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó vv để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm nay và mai sau. Muốn đạt được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đấu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi. Khi đọc mẫu giáo viên nên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong cách đọc tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh. Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào trong thực tiễn lớp, tôi thấy học sinh lớp tôi đã nhớ rõ được các âm, vần đã học. Các em ghép tiếng và đọc tiếng rất nhanh. Bây giờ các em đã có thể đọc lưu loát một đoạn văn hay một khổ thơ. Nhiều em còn đọc rất diễn cảm, ngắt nghỉ hơi tốt. Để đảm bảo mục tiêu bài học trong quá trình dạy học người giáo viên cần phải dạy cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, quan sát, phân tích, đặt vấn đề và lập kế hoạch giải quyết vấn đề, rèn cho học sinh tính kiên nhẫn, lòng say mê học tập, tạo hứng thú cho học sinh. 2. Đề xuất: - Đối với nhà trường: Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu sâu thiết kế, ... Phải hết sức linh hoạt, sáng tạo trong dạy học. - Đối với giáo viên: chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi và tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em ham học và yêu thích môn học. - Về phía học sinh: Có đầy đủ đồ dùng học tập, có ý thức tự giác trong học tập. Trong bảng sáng kiến này do kinh nghiệm và trình độ của tôi còn nhiều hạn chế nên không thể không thiếu sót trong quá trình thực hiện. rất mong sự đóng góp của đồng nghiệp, ban giám hiệu nhà trường và các cấp lãnh đạo để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn. HiếuThành, ngày 7 tháng 1 năm 2020 Người viết Võ Văn Minh Thắng Kinh nghiệm này đã được thông qua HĐKH Của trường và thực hiện có kết quả tốt. Xếp loại:........................ Hiếu thành, ngày tháng năm 201 Hiệu trưởng Nguyễn Văn Tư Hội đồng khoa học huyện xác nhận sáng kiến kinh nghiệm Đạt điểm:.......... Ngày.......tháng......năm......... Trưởng phòng
File đính kèm:
skkn_mot_so_ki_nang_ren_doc_cho_hoc_sinh_lop_15_truong_tieu.doc