SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng nghe và tập kể chuyện cho học sinh Lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng dạy học
Trong quá trình nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 1 tôi thấy có nhiều vướng mắc khi dạy kể chuyện như: việc chuẩn bị bài hài hầu như giáo viên còn phụ thuộc vào sách giáo viên và bài soạn. Chính vì thế thế mà bài dạy trên lớp còn mang tính áp đặt đơn điệu chưa phù hợp với đối tượng học sinh sinh làm cho học sinh nắm nội dung truyện còn máy móc, coi phân môn kể chuyện chỉ là giải trí, các môn học khác quan trọng hơn nên đầu tư cho các em nhiều hơn. Do đó sự chuẩn bị của giáo viên chưa chu đáo áo dẫn đến tiết dạy giờ học mang tính hiệu quả không cao. Hơn nữa nhiều giáo viên rất ngại dạy kể chuyện nhất là vào dịp thao giảng dự giờ thăm lớp, vì sợ khả năng kể chuyện không hấp dẫn, chuẩn bị cho một giờ kể chuyện lại rất mất nhiều công sức và thời gian như: trang phục, tranh vẽ… Rất íthọc sinh biết kể chuyệnmột cách trôi chảy mạch lạc vì kỹ năng nói còn kém. Đối với những giáo viên tâm huyết với nghề và dày kinh nghiệm thì cho rằng kể chuyện là môn học hấp dẫn thú vị với học sinh, nhưng làm sao để có cách kể hay cho học sinh nghe và nhớ được chuyện, sau đó phải tập luyện thế nào để cho học sinh kể lại từng đoạn chuyện một cách tự nhiên. Đó là những băn khoăn của tôi và nhiều giáo viên đứng lớp hiện nay.
Về học sinh: Qua tìm hiểu tôi được biết các em rất thích học môn kể chuyện dường như hàng ngày hàng tuần lúc nào các em cũng mong ngóng để đến giờ kể chuyện. Đặc biệt trong giờ Kể chuyện các em thích nghe cô kể hơn là nghe cô đọc lại văn bản truyện. Nếu được gọi kể thì các em sẽ kể theo gợi ý của truyện sau mỗi tranh, các em chưa biết liên kết được các bức tranh thành một đoạn truyện. Lý do là các em chưa kịp nắm được nội dung khi nghe kể và kỹ năng nói còn kém ,mặc dù sau mỗi bài học học vần và tập đọc đọc các em đã được rèn luyện kỹ năng nói. Song vẫn còn một số ít kể lại cả chuyện một cách trôi chảy và hấp dẫn, biết nhập vai nhân vật trong truyện để kể lại. Hơn nữa qua mỗi bài học có thêm phần luyện nói. Nhưng thực ra chưa giúp các em nắm được văn bản và mạnh dạn diễn đạt đạt lại nội dung văn bản. Nếu có sự đầu tư hơn về rèn luyện kỹ năng kể của giáo viên và tập luyện cho học sinh chắc chắn rằng các em sẽ có kỹ năng kể tốt hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng nghe và tập kể chuyện cho học sinh Lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng dạy học

o viên kể mẫu, khi kể mẫu giáo viên cần đặt câu hỏi liên quan đến tình huống mở làm cho học sinh bị lôi cuốn bởi sức hấp dẫn của truyện, sự kết hợp giữa giọng điệu và cử chỉ sử dụng từ ngữ có chọn lọc rút các em có cảm giác như các nhân vật trong truyện là có thật đang hiện lên sinh động trong từng ngôn từ và sống động trong từng cử chỉ điệu bộ của cô . Ví dụ: Đôi tai xấu xí Vì sao thỏ buồn? Chuyện gì xảy ra trong lần thỏ và các bạn đi chơi xa? Nhờ đâu mà cả nhóm tìm được đường về nhà? Tranh 1: Lời của thỏ buồn vì đôi tai to. Giáo viên kể thể hiện thái độ kèm cử chỉ điệu bộ để thu hút học sinh. Tranh 4: Lời kể sôi động vui vẻ kèm theo thái độ tự tin tự hào vì mình có đôi tai thính. Ví dụ: Sói Và Sóc Tình huống: Sóc bị sói bắt được định ăn thịt, sóc van nài: Hãy thả tôi ra nào! Lời kể của sóc thì giáo viên kể với giọng mềm mỏng, nhẹ nhàng thể hiện sự ân cần. Cử chỉ, điệu bộ: nét mẹt lo âu, sợ sệt. Đến đây giáo viên có thể dùng câu hỏi gợi mở mở các em thấy Sói có thả sóc không để học sinh phán đoán gây sự chú ý tò mò và suy nghĩ. Muốn làm được điều đó thì phải thuộc truyện và tập kể trước khi đến lớp để việc kể mẫu của cô thật sự gây ấn tượng vì như chúng ta đã biết học sinh lớp 1 thuộc và nhớ chuyện là chủ yếu, ở lời kể của cô trên lớp (kể lần 1, 2, 3) vừa kể vừa kết hợp với tranh cho học sinh quan sát. Giáo viên cho HS kể và phán đoán nội dung có thể xảy ra. Ví dụ: Chú Bé Chăn Cừu. Khi giáo viên in phóng to tranh cho học sinh quan sát thì đã lôi cuốn sự tò mò của học sinh, sự tò mò ấy được tăng lên khi kết hợp với lời kể hấp dẫn của giáo viên. Đến phần học sinh kể chuyện theo tranh đoạn giáo viên yêu cầu học sinh quan sát tranh để mô tả sự tò mò: Khi nghe chú bé kêu cứu Lần 1: Khi nghe chú bé kêu cứu các bác nông dân ăn bỏ việc, vác cuốc liềm để đuổi Sói cứu đàn cừu nhưng khi tới thì không thấy sói. Lần 2: Khi nghe chú bé kêu cứu các bác nông dân cũng bỏ việc chạy lên để đuổi sói nhưng chẳng thấy sói đâu cả. Rồi một hôm sói đến thật chú bé kêu cứu. Em phỏng đoán xem khi nghe chú bé kêu cứu các bác nông dân có bỏ việc của mình để đuổi sói nữa không? Học sinh phán đoán gây nên sự hấp dẫn tò mò. Học sinh nêu phán đoán của mình tạo sự hấp dẫn của truyện . Có hai tình huống : Sói đến các bác nông dân cũng vẫn đến đuổi như mọi lần. Sói đến nhưng các bác nông dân vẫn thản nhiên làm việc vì họ nghĩ chú bé lại bày trò. Như vậy việc quan sát tranh không chỉ những phát triển làm giàu vốn từ, khả năng diễn đạt, sự làm chủ về ngôn ngữ của các em mà còn kích thích sự hứng thú tò mò phán đoán của các em sau mỗi chi tiết của câu chuyện. Giáo viên dùng dữ liệu của mình để dẫn dắt và tình huống gây hấp dẫn cho học sinh. Tiết kể chuyện có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào giáo viên kể mẫu, khi kể mẫu giáo viên cần đặt câu hỏi liên quan đến tình huống mở làm cho học sinh bị lôi cuốn bởi sức hấp dẫn của câu truyện. Tóm lại trong tiết kể chuyện học sinh có thuộc được chuyện có kể được hay không là phụ thuộc rất nhiều vào giáo viên kể mẫu vì học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 1sẽ rất hay bắt chước và làm theo lời cô. Chính vì thế mà đòi hỏi người giáo viên phải luyện giọng của mình thật chuẩn hấp dẫn đúng ngữ điệu và thể hiện được các cử chỉ điệu bộ của từng nhân vật. Có như vậy thì mới thu hút được sự chú ý của học sinh và học sinh sẽ bắt chước kể được giống cô . Khích lệ động viên kịp thời giúp học sinh tự tin. Với đặc điểm của học sinh tiểu học là rất thích được cô khen. Giúp các em tự tin trước đám đông không phải dễ dàng đặc biệt là đối với học sinh tiếp thu bài còn chậm các em luôn mặc cảm và tự ti. Vì vậy việc khích lệ động viên cần phù hợp với từng đối tượng. Học sinh có khả năng tiếp thu bài tốt thì yêu cầu kể chuyện của các em cao hơn, ngoài việc thuộc chuyện các em còn kết hợp một số cử chỉ điệu bộ, giọng điệu phù hợp với nhân vật đối tượng. Ví dụ: Kiến và chim bồ câu. Đối với học sinh có khả năng tiếp thu bài tốt thì giáo viên có thể yêu cầu học sinh kể thuộc nội dung truyện và kết hợp giọng nói cử chỉ điệu bộ của Kiến và Bồ Câu. Lời kêu cứu của Kiến thể hiện sự hốt hoảng của nhân vật sắp chết. Lời người dẫn truyện thể hiện sự truyền cảm hấp dẫn khi có bồ câu xuất hiện. Học sinh tiếp thu bài còn chậm chỉ cần yêu cầu học sinh nhìn tranh kể từng đoạn hoặc nhớ để kể. Các em chỉ cần kể nội dung chậm, chưa đúng lời nhân vật và không thể hiện được giọng điệu giáo viên cũng khen để động viên các em. Từ đó các em thấy mình tiến bộ và có hướng phấn đấu để thành công. Tóm lại: khi học sinh kể chuyện các em chỉ cần có sự tiến bộ mặc dù rất nhỏ giáo viên cũng lên cổ vũ động viên các em một cách kịp thời để giúp các em có niềm tin và mạnh dạn hơn hơn trước cô trước các bạn bạn từ đó các em có trí phẫn đấu. Kỹ năng nghe kể, nhận xét. Kỹ năng nghe kể là rất quan trọng đối với học sinh, câu chuyện có hay, có hấp dẫn hay không thì điều đầu tiên phải giúp các em biết nghe cô kể, bạn kể để cảm nhận. Từ đó biết đánh giá nhận xét. Kể có nhều hình thức kể như: thi kể giữa các nhóm với nhau, kể theo tranh Ví dụ: Khi mẹ vắng nhà. Ngoài việc yêu cầu học sinh quan sát tranh, học sinh phải đọc kĩ câu gợi ý dưới mỗi tranh. Tranh 1: Trong khu rừng nọ Tranh 2: Một con sói Tranh 3: Nhớ lời mẹ Tranh 4: Nghe đúng tiếng mẹ Khi bạn kể xong học sinh phải nhận xét theo yêu cầu sau: Nội dung câu chuyện bạn kể đã đầy đủ chưa? Lời nói của nhân vật : người mẹ, sói đã phù hơp chưa? Bạn thể hiện cử chỉ , điệu bộ của nhân vật đã phù hợp chưa? Vì vậy khi hướng dẫn học sinh nhận xét việc đánh giá học sinh cần lưu ý: Giáo viên cho học sinh nhận xét đánh giá theo nhóm, chia nhóm học sinh phải cùng trình độ với nhau. Nhóm kể tốt yêu cầu cao hơn, ngoài thuộc truyện yêu cầu phải thuộc được giọng của nhân vật kể đúng ngữ điệu, nhóm biết kể chỉ yêu cầu học sinh kể đúng nội dung câu chuyện một cách tóm tắt cũng đã được tuyên dương. Vì đó là sự cố gắng rất lớn cho dù kết quả không bằng nhóm kể tốt. Khi tập kể chuyện thì giáo viên phải cho học sinh nắm được cốt truyện. Vì vậy giáo viên yêu cầu học sinh khi kể phải bám sát nội dung, tranh minh họa và câu hỏi gợi ý, ngoài ra ra giáo viên còn nên viết tắt nội dung cốt truyện với tình tiết cơ bản nhất một bên dưới mỗi bức hình như thế học sinh sẽ nhớ nội dung câu chuyện hơn và khi bạn kể học sinh cũng nhận xét một cách chính xác hơn. Tóm lại: hiệu quả giờ học sẽ cao hơn khi các em chú ý nghe cô kể, bạn kể sẽ giúp cho việc đánh giá nhận xét một bạn biết đúng, biết sai, biết được hoặc chưa biết được để tránh cho mình không mắc lỗi ngoài ra còn khích lệ giúp các em thích thú hơn, tự tin hơn trong giờ kể chuyện. Giúp học sinh kể chuyện sáng tạo. Kể chuyện sáng tạo tức là không phải thay thế lời lẽ làm văn bản không chính xác hay học sinh kể nguyên bản truyện, mà sáng tạo là kể chuyện hồn nhiên làm cho người nghe cảm nhận sự thuyết phục hấp dẫn, ấn tượng đó mới là sáng tạo. Có nhiều mức độ khác nhau, với kiểu bài tập khác nhau, nhưng bản chất kể chuyện sáng tạo không phải là kể khác các nguyên văn ăn cốt truyện mà kể tự nhiên như sống với câu chuyện, kể bằng ngôn ngữ giọng điệu của mình, thể hiện được cảm nhận của mình về câu chuyện. Muốn làm được như vậy bắt buộc học sinh sinh có phải nắm vững nội dung cốt truyện. Đối với lớp 1 yêu cầu kể sáng tạo không cao như như lớp trên lớp 1 chỉ cần kể hồn nhiên bằng giọng điệu cảm xúc của mình, học sinh có thể thêm vào câu chuyện một số câu chữ của mình, cũng có thể diễn lại nguyên văn câu chuyện một cách trôi chảy phải tự nhiên nhịp nhàng làm cho người nghe thấy được nội dung cốt truyện liền mạch. Nếu cao hơn còn biết nhập vai nhân vật qua ngữ điệu, cử chỉ, nét mặt và điệu bộ một cách hồn nhiên là được . Ví dụ: Chó sói và cừu non. Lời kể thay đổi theo tình tiết . Lời cừu non khi gặp sói sợ hãi, rồi bình tĩnh giao tiếp với sói với giọng mềm mỏng nhẹ nhàng. Như vậy phần kể chuyện sáng tạo là phần mà học sinh hào hứng nhất, gây sự hứng thú trong mỗi học sinh. Nên hướng dẫn học sinh nhập vai sống với nhân vật của truyện là cả một nghệ thuật của giáo viên. Lồng ghép với môn học khác: Ví dụ: Môn tự nhiên xã hội bài: Bài 1: Kể về gia đình Gia đình nhà bạn Hoa có những ai? Ông bà, bố mẹ Hoa thường làm gì vào lúc nghỉ ngơi? Mọi người trong gia đình Hoa có vui vẻ không? Sau khi nghe học sinh kể cho nhau nghe trong nhóm, giáo viên cho học sinh kể trước lớp giáo viên cần giúp học sinh kể về gia đình mình một cách rõ ràng tự hào, thể hiện sự kính trọng dành cho ông bà bố mẹ qua điệu bộ cử chỉ phù hợp với tình cảm của em dành cho mọi người thân trong gia đình. Kết quả sau khi áp dụng giải pháp sáng kiến tại đơn vị: Qua thời gian nghiên cứu đề tài cùng với sự giúp đỡ tận tình của ban giám hiệu và đồng nghiệp cho đến nay đề tài của tôi đã hoàn thành. Những biện pháp tôi đưa ra ở trên chưa đạt được kết quả như mong muốn, xong nó cũng giúp tôi phần nào thấy được những thuận lợi, khó khăn mà giáo viên và học sinh gặp phải. Trong suốt quá trình giảng dạy và thực hiện đề tài tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau: Lựa chọn ngôn ngữ - ngữ điệu kể. Sử dụng các yếu tố hỗ trợ như nét mặt, cứ chỉ, điệu bộ Giáo viên phải tạo được không khí tự nhiên, thoái mái trong lớp học. Để làm được việc này người giáo viên phải thay đổi hình thức trong lớp. có thể kẻ chuyện ngoài giờ hoặc sắp xếp bàn ghế để ngồi vòng tròn Trong tiết kể chuyện hoạt động chính là của trò. Vì vậy việc tập kể của học sinh nên tăng dần theo mức độ. Kể một đoạn sau đó kể cả chuyện rồi kể phân vai, thi kể chuyện tiếp sức Phải chuyên tâm với nghề, yêu trẻ, chú ý môn dạy mà mình trăn trở. Phải chuẩn bị cho tiết dạy chu đáo, đầu tư nhiều thời gian, kinh phí nếu có thể. Sử dụng đồ dùng được cấp và đồ dùng tự làm, sưu tầm vật mẫu một cách triệt để, tranh ảnh phóng to bằng đèn chiếu màn hình. Rèn ngôn ngữ kể chuyện phong cách kể chuyện hấp dẫn để lôi cuốn người nghe, động viên khuyến khích học sinh kịp thời đặc biệt là học sinh tiếp thu còn chậm.Giáo viên giúp các em vượt bậc dù là tiến bộ rất nhỏ nhưng đây là khâu quan trọng trong tiết dạy. Chú ý nhân rộng điển hình và động viên khuyến khích học sinh sinh vì học thầy không không tày học bạn. Nên kết hợp với phụ huynh bằng nhiều hình thức thức để giúp học sinh học tập được tốt hơn. Nên dạy lồng ghép với các môn học khác hoặc các hoạt động khác như: như sinh hoạt tập thể, hoạt động trải nghiệm. Em phân loại học sinh để có biện pháp kịp thời. Rèn các em em tính tự tin trước đông người. Có đủ sách giáo khoa, chuẩn bị bài chu đáo ở nhà. Thường xuyên kể các mẩu chuyện đã được nghe hoặc học ở lớp cho bố mẹ nghe, cứ như thế khi đến lớp các em sẽ tự tin trước đông người. Nếu thực hiện tốt tất cả những điều trên tôi tin rằng môn kể chuyện sẽ được học sinh yêu thích và hứng thú. Là một giáo viên tiểu học, đứng trước những đổi mới của ngành, bản thân tôi sẽ không ngừng học hỏi, nghiên cứu để đúc rút được nhiều kinh nghiệm hơn trong quá trình hình xây dựng chuyên môn để có tiết dạy kể chuyện sáng tạo và hiệu quả. Hiệu quả của sáng kiến: Trong quá trình nghiên cứu và thực nghiệm ở lớp 1 cùng với sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của ban giám hiệu , sự nỗ lực của bản thân , sự chăm chỉ của các em học sinh tôi đã đạt được kết quả như sau: Kết quả điều tra đầu năm. Tổng số HS Kể chuyện hay Biết kể đúng nội dung chuyện Chưa biết kể SL % SL % SL % 34 3 8,8 10 29,4 21 61,8 Kết quả cuối năm: Số học sinh Kể chuyện hay Biết kể đúng nội dung chuyện Chưa biết kể Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % S L Tỉ lệ % 34 17 50,0 16 47,1 1 2,9 Hiệu quả về khoa học: Khả năng áp dụng và nhân rộng, đối tượng trọng tâm áp dụng của sáng kiến kinh nghiệm này là các học sinh và giáo viên của các trường tiểu học, bồi dưỡng học sinh giỏi tham gia các kì thi tuyên truyền giới thiệu sách. Ngoài ra, sáng kiến này cũng có thể dùng làm tài liệu cho các học sinh các cấp trên. Hiệu quả về kinh tế: Mặc dù hiệu quả kinh tế trực tiếp của sáng kiến rất khó đánh giá định lượng cụ thể, tuy nhiên có thể chỉ ra một số lợi ích kinh tế trực tiếp như sau: + Giảm thiểu việc mua và phụ thuộc vào nguồn tài liệu bài tập bên ngoài cho cả giáo viên và học sinh. + Đề tài chỉ ra phương pháp xây dựng các bài tập nhiều cấp độ dựa trên nguồn tư liệu mở có sẵn trên mạng internet. + Hạn chế bớt việc mời chuyên gia hoặc đạo diễn để bổ túc phần kiến thức. + Giảm thiểu thời gian trên lớp của giáo viên và học sinh. Bên cạnh đó, là những hiệu quả gián tiếp lâu dài về mặt kinh tế như nâng cao hiệu suất công việc của giáo viên, giúp học sinh có hứng thú hơn với môn học và nghiên cứu khoa học Đặc biệt trong các hội thi do nhà trường tổ chức 20-11, 22-12, 8- 3 tiết hoạt động trải nghiệm thứ hai hàng tuần lớp tôi đã có học sinh tham gia thi hát, kể chuyện... và đạt giải cao. Từ những kết quá đạt được trên mà học sinh càng tin yêu cô giáo hơn, thích học kể chuyện hơn, các em đã xem cô giáo như người mẹ đã dìu dắt các em về mọi mặt. Kết quả đạt được như hiện nay tôi cảm thấy rất phấn khởi tự hào và vinh dự. Tôi càng cố gắng hơn nữa trong mọi lĩnh vực công tác của mình để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường ngày một đi lên . Hiệu quả về xã hội: Trực tiếp nâng cao chất lượng bồi dưỡng đội tuyển học sinh có năng khiếu kể chuyện, đóng vaiGiúp học sinh tiếp cận các kiến thức mới mẻ, thời sự, có phương pháp học tập đúng đắn. Các nghiên cứu khoa học hiện đại được đưa vào nhằm đem đến cái nhìn tổng quan cho học sinh về môn học nói riêng và quá trình nghiên cứu khoa học nói chung. Giúp giáo viên bổ sung và nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như hiệu quả giảng dạy. Tính khả thi Năm học 2023- 2024 ứng dụng thành công tại lớp 1C, các bạn đồng nghiệp thấy hay đã ứng dụng vào các lớp 1 còn lại và cả các lớp đều đạt chất lượng cao. Qua quá trình đúc kết kinh nghiệm của tôi, tôi đã mạnh dạn chia sẽ cùng các bạn đồng nghiệp và được Ban Giám Hiệu phổ biến rộng rãi trong hội đồng sư phạm. Thời gian thực hiện đề tài, sáng kiến. Từ tháng 9 năm 2023 đến tháng 4 năm 2024. Kinh phí thực hiện đề tài, sáng kiến. Kinh phí là 900.000 đồng. Mua giấy và bút vẽ để vẽ tranh phục vụ các tiết học áp dụng đề tài. KIỄN NGHỊ, ĐỀ XUẤT. Hàng năm trường cần tổ chức các cuộc hội thảo về chuyên môn tạo điều kiện cho giáo viên giao lưu trao đổi kinh nghiệm giữa các trường. Cần tổ chức thường xuyên thi kể chuyện theo chủ đề về các ngày lễ để học sinh giao lưu học hỏi và thi đua lẫn nhau. Cần tham mưu với ban giám hiệu cán bộ thư viện xây dựng và bổ sung sách báo truyện đọc hơn nữa ra để các em tham gia ra đọc sách báo ở thư viện. Qua thực tế giảng dạy tôi mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến nhỏ. Vì hiểu biết của tôi còn hạn chế, kinh nghiệm chưa nhiều nên trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Kính mong sự góp ý và giúp đỡ chân thành của hội đồng khoa học các cấp ấp để sáng kiến hoàn thiện hơn. Tôi xin cam đoan SKKN là do chính tôi đã nghiên cứu và trình bày, không sao chép nội dung của người khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN (ký tên, đóng dấu) Ngày 20 tháng 4 năm 2024. NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN Nguyễn Thị Kim Oanh
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_ren_ky_nang_nghe_va_tap_ke_chuyen_cho.docx
SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng nghe và tập kể chuyện cho học sinh Lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng.pdf