SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt Lớp 1 theo chương trình sách giáo khoa mới
Trò chơi học tập là trò chơi có luật gồm các quy tắc gắn với kiến thức, kỹ năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác được vốn kiến thức của bản thân để chơi. Thông qua chơi, học sinh vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học vào tình huống trò chơi, được thực hành luyện tập kỹ năng môn Tiếng Việt được đưa vào trò chơi. Để các trò chơi mang lại hiệu quả cao trong học tập, khi xây dựng và thiết kế trò chơi, cần tuân thủ những nguyên tắc [4]:
+ Đảm bảo tính mục đích: Phải hướng tới thực hiện mục tiêu, nội dung từng bài học. Do đó nội dung chơi, luật chơi và hành động của trò chơi học tập cần hướng vào kiến thức mà các em đã được học, phát triển kĩ năng nhận thức và hành động, mặt khác còn rèn luyện tinh thần thái độ học tập.
+ Đảm bảo tính vừa sức: Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí nói chung và đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 1 nói riêng.
+ Đảm bảo tính phát triển: Việc thiết kế trò chơi được xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
+ Đảm bảo tính hấp dẫn: Để phát huy tính tích cực, tự do, tự nguyện tham gia trò chơi của học sinh, kích thích ở học sinh nhu cầu học tập, khám phá và có ý nghĩa giải quyết vấn đề.
+ Đảm bảo tính phù hợp với điều kiện: Cần thiết kế trò chơi phải đảm bảo được thời gian dạy trong mỗi tiết học cũng như điều kiện cơ sở vật chất lớp học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt Lớp 1 theo chương trình sách giáo khoa mới

hứng thú, tạo tâm thế vào bài học mới (trò chơi hái táo, lật mảnh ghép, ô cữa bí mật,..) Để đạt hiệu quả trong việc tổ chức trò chơi Tiếng Việt cho học sinh lớp 1, cần phải đọc tài liệu, sách báo, tạp chí, có liên quan đến bài học. Chính sự nghiên cứu, tìm tòi ở tài liệu sẽ giúp tiết học sử dụng trò chơi đạt kết quả tốt hơn. Bước 2: Chọn trò chơi Việc lựa chọn trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt lớp 1 phải đáp ứng yêu cầu của mục đích dạy học, phải lựa chọn các thời điểm thích hợp để tổ chức các trò chơi học tập. Các thời điểm thích hợp có thể là ở bước Khởi động để củng cố kiến thức bài cũ và kích thích hứng thú của các em sẵn sang tâm thế bước vào học bài mới; ở bước Khám phá – hình thành kiến thức mới, hoặc sử dụng ở bước Vận dụng, củng cố kiến thức. Việc tổ chức trò chơi sẽ kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, tránh được không khí căng thẳng trong giờ học. Việc lựa chọn trò chơi cũng phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, vừa sức với học sinh. Bước 3: Xây dựng và thiết kế trò chơi - Xác định được nhiệm vụ học tập của trò chơi đây chính là nội dung trò chơi. Tức là khi chơi trò chơi này xong, học sinh phát triển được gì về phẩm chất và năng lực. - Lựa chọn các hoạt động của trò chơi: Dựa vào nội dung kiến thức, nhiệm vụ học tập xác định và điều kiện của trường lớp về phương tiện sử dụng trò chơi, ví dụ như máy chiếu, bảng phụ từ đó lựa chọn, thiết kế trò chơi phù hợp. - Xác định luật chơi của trò chơi: Tuỳ thuộc vào nhiệm vụ học tập, hành động chơi, phương tiện sử dụng và kết quả chơi của trò chơi. Luật chơi phải biểu đạt rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, nói rõ số lượng thành viên tham gia và cần phân biệt rõ ràng cho học sinh những việc phải làm và những việc không được làm trong quá trình chơi. - Đặt tên trò chơi: Tên trò chơi cũng là một yếu tố quan trọng, tên trò chơi là điều tiên quyết quyết định đến tính hấp dẫn của trò chơi, kích thích sự tò mò, tạo hứng thú của các em. Do đó, việc lựa chọn tên cần đơn giản, dễ hiểu, gợi sự vui vẻ, hướng vào nhiệm vụ học tập, hành động chơi. Ví dụ như: Lật mảnh ghép, đào vàng, hái táo, 2.1.3.2. Tổ chức chơi và đánh giá kết quả chơi Có thể nói rằng, tổ chức trò chơi học tập chính là hình thức vận động có chứa nội dung học tập, chúng gắn liền với hoạt động của giáo viên giúp giáo viên hoàn thành được nhiệm vụ phù hợp với mục đích đã đặt ra. Khi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi học tập đòi hỏi giáo viên có nghệ thuật sư phạm, có năng lực sư phạm hiểu được hứng thú cũng như ý tưởng của học sinh, có kĩ năng hành động cùng học sinh, và biết cách hướng học sinh tới những ý tưởng mới. Cũng không nên biến một giờ học thành một giờ chơi mà chơi là phục vụ cho việc học. Do vậy, việc tổ chức trò chơi học tập có thể được tổ chức theo các bước sau: * Chuẩn bị chơi: Lập kế hoạch tổ chức chơi thực hiện những nhiệm vụ sau: xác định mục đích, yêu cầu; lựa chọn nội dung trò chơi học tập và hình thức tổ chức chơi; lựa chọn các biện pháp và các phương tiện tiến hành các hoạt động của giáo viên và học sinh trong trò chơi; chuẩn bị phương tiện hoặc đồ dùng học tập phục vụ cho trò chơi. * Hướng dẫn trò chơi: gây hứng thú của học sinh đến trò chơi bằng những lời đề nghị, tạo các tình huống, những câu đố, câu thơ...; phổ biến nội dung, luật chơi và cách tiến hành: Giáo viên hướng dẫn trò chơi, làm mẫu hành động chơi, kèm theo lời giải thích ngắn gọn và hướng trò chơi vào nhiệm vụ học tập. *Tiến hành và đánh giá kết quả trò chơi chơi: nên khuyến khích học sinh rụt rè tham gia trò chơi, chú ý đến khả năng tiếp thu bài học của cá nhân học sinh; kết thúc trò chơi, việc đánh giá cần tạo cho học sinh phấn chấn vì kết quả đã đạt được và tạo tâm thế chờ đợi những trò chơi tiếp theo. Trong giờ học Tiếng Việt lớp, chúng tôi thường tổ chức trò chơi ở 2 phần: phần Khởi động và phần Khám phá – Luyện tập: - Trò chơi phần khởi động Để tạo hứng thú cho học sinh xuyên suốt trong một buổi học thì cách vào bài lôi cuốn, hấp dẫn là điều vô cùng cần thiết. Thay vì vào bài trực tiếp thì giáo viên hãy bắt đầu với một vấn đề mà có thể thu hút học sinh tham gia và đó cũng là cách hiệu quả nhất để học sinh nhanh chóng vào bài. Không chiếm quá nhiều thời gian, các trò chơi dưới 5 phút cho học sinh tiểu học hứng thú vào tiết học hay nhất sẽ mang đến giờ học thật thú vị cho giáo viên và học sinh. Cũng có thể là một trò chơi vận động và cũng có thể tổ chức một trò chơi để củng cố kiến thức bài cũ lồng ghép để hình thành kiến thức bài mới. Ví dụ: Trò chơi “Lật mảnh ghép tìm hình” Dạy bài 7: đ, e ( sách Cánh diều, Tiếng Việt 1-tập 1) + Chuẩn bị: Soạn trò chơi trên phần mềm powpoit, với tấm hình bí mật là hình ảnh “cái đe” ở phần làm quen. Nội dung trên từng mảnh ghép là các tiếng đã được học ở bài 6: cổ cò, da cá, cờ, cá cờ, da, phở. + Mục đích: luyện đọc các tiếng có chứa âm ơ, âm d đã được học ở bài trước, kích thích tính tò mò, gợi mở sự tư duy, tưởng tượng về cái đe sẽ được giới thiệu ở bài mới. + Tiến hành: chiếu trò chơi trên màn hình máy chiếu và nêu rõ luật chơi: Cô sẽ có 6 mảnh ghép, đằng sau 6 mảnh ghép là một tấm hình mà chúng ta cần tìm. Để mở được từng mảnh ghép, chúng ta đọc đúng nội dung trên từng mảnh ghép. Tiến hành gọi từng học sinh đứng dậy lật mảnh ghép và đọc nội dung. Trong quá trình chơi, giáo viên cần tuyên dương các em đọc đúng, đồng thời cũng khuyến khích các em đọc chưa tốt và hướng dẫn các em đọc lại. + Nhận xét: Sau trò chơi, giáo viên nhận xét về kỹ năng đọc bài và bài tập về nhà của các em. Sau đó giải thích hình ảnh cái đe và giới thiệu âm đ, âm e trong tiếng đe sẽ được học trong bài mới - Trò chơi phần Khám phá – Luyện tập Đây thường là các trò chơi thực hành ngay sau bài mới. Ngay sau khi nhận biết kiến thức mới học các em rất hứng thú vì thế giáo viên tạo điều kiện cho học sinh củng cố và tập vận dụng kiến thức mới học ngay sau khi học bài mới để các em bước đầu chiếm lĩnh kiến thức mới ngay ở lớp. Trong sách Tiếng Việt 1 sau phần bài học thường có bài tập để tạo điều kiện cho học sinh củng cố kiến thức mới học qua thực hành và bước đầu tập vận dụng kiến thức mới lĩnh hội để giải quyết các vấn đề cụ thể. Dựa vào mục tiêu của từng bài cụ thể để áp dụng phương pháp cho phù hợp vào việc tổ chức hướng dẫn học sinh thực hành, luyện tập có hiệu quả. Ví dụ: Trò chơi “Bắn tên” trong dạy bài 94: anh, ach ( sách cánh diều, Tiếng Việt 1-tập 2) Trò chơi này có thể thực hiện ngay sau mỗi bài học âm, vần mới với mục đích là giúp học sinh tạo tiếng mới có chứa âm, vần vừa học. Trò chơi này giúp học sinh mạnh dạn hơn, tập trung chú ý cao hơn và bắt buộc thành viên nào trong lớp cũng tự tìm cho mình một tiếng mới chứa âm, vần mới vừa học. Cách tiến hành như sau: Mời cả lớp đứng dậy, gọi 1 bạn lên bảng làm quản trò, quản trò nói to yêu cầu: “Tìm tiếng mới chứa vần anh, vần ach?” và hô to: “Bắn tên, bắn tên!”. Mình bắn bạn A. Bạn A tìm tiếng mới chứa vần anh, ach. Sau khi bạn A tìm được tiếng mới thì bạn A có quyền bắn tên bạn nào bất kỳ trong lớp, tương tự như vậy đến khoảng 5 bạn. Sau đó giáo viên đưa ra nhận xét, tuyên dương cả lớp để tạo hứng thú, động lực cho học sinh. Đây cũng là một hình thức giải trí giữa tiết học đông thời rèn luyện kỹ năng cho học sinh. 2.2.Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một trong những yêu cầu và điều kiện để thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018. Tất cả các trường đã chuẩn bị các điều kiện để thực hiện. Lớp học đáp ứng yêu cầu chương trình dạy học, 100% lớp 1 đã có máy chiếu và màn hình chiếu, đồ dùng dạy và học cho lớp 1 tương đối đầy đủ. Đó là một thuận lợi rất lớn cho nền giáo dục hiện nay. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp bài giảng thêm sinh động, cung cấp được nhiều thông tin cho học sinh, gây được hứng thú của các em, đồng thời giúp các em tiếp nhận tri thức hiện đại. Để dạy môn Tiếng Việt, giáo viên có thể sử dụng nhiều tranh ảnh, trò chơi, bài hát cuối hoặc giữa tiết trong tất cả các tiết học hình thành âm, vần mới. Những yếu tố này nếu được chuyển tải bằng các tính năng của công nghệ thông tìn thì mới phát huy hết được cái hay, cái đọc đáo của nó. Chẳng hạn, khi không có phần mềm PowerPoint, học sinh chỉ quan sát chữ mẫu giáo viên viết lên bảng. Nhưng khi ứng dụng công nghệ thông tin, từ điểm đặt bút đến điểm dừng bút mà không bị che khuất như cô viết mẫu hoặc chỉ. Ví dụ: Bài: ng – ngh. Lần 1: giáo viên cho xuất hiện cả hai chữ để học sinh so sánh Hình 1: Hình ảnh chữ ng và ngh trên powpoint Lần 2: Giáo viên bấm xuất hiện từng chữ và quy trình viết của từng chữ đó được chạy tự động như giáo viên đang viết bảng kèm theo mũi tên chỉ hướng, hoặc giáo viên có thể dùng que chỉ theo đường chạy trên màn hình kết nối quy trình viết. Hình 2: Hình ảnh quy trình viết chữ ng và ngh trên powpoint Học sinh theo dõi quy trình viết trên máy vì vậy xác định rõ điểm đặt bút, điểm dừng bút. Sau đó giáo viên viết mẫu, học sinh thực hành viết vào bảng. Chắc chắn rằng các em xác định chữ và quan sát một cách chăm chú hơn, do vậy viết chữ đẹp và đúng hơn. Không những thế khi hướng dẫn học sinh viết vở, giáo viên nên sử dụng phần mềm để giới thiệu những bài viết mẫu đẹp, từ đó học sinh bắt chước và viết vào vở một cách chính xác hơn. 2.3. Giáo viên linh hoạt trong việc sử dụng ngữ liệu Trước đây, sách giáo khoa và những ngữ liệu, những nội dung bài trong sách giáo khoa là nội dung bắt buộc nhưng kể từ năm 2018, chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng theo hướng mở. Hướng mở nghĩa là nội dung sách giáo khoa, nội dung dạy học không bắt buộc là nội dung cụ thể mà chỉ là tài liệu tham khảo chính và tùy vào đối tượng, năng lực nhận thức của học sinh, đặc điểm của học sinh thì giáo viên có quyền thay đổi nội dung, thay đổi ngữ liệu phù hợp với đối tượng học sinh. 2.3.1. Khái niệm về ngữ liệu Ngữ liệu là tiếng, từ, câu thơ, câu văn, đoạn văn, bài thơ, có chứa đơn vị ngôn ngữ cần dạy cho học sinh [6]. Ngữ liệu được đưa vào sách giáo khoa tiểu học để cung cấp cho học sinh kiến thức, trang bị kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, đồng thời dồi dưỡng cho các em thái độ, tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ. 2.3.2. Căn cứ để chọn ngữ liệu Để đáp ứng yêu cầu hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh, ngữ liệu lựa chọn phải đáp ứng các tiêu chí sau [2]: - Phục vụ trực tiếp cho việc phát triển phẩm chất và năng lực theo mục tiêu, yêu cầu cần đạt của chương trình. - Phù hợp với kinh nghiệm, năng lực nhận thức, đặc điểm tâm – sinh lí của học sinh ở từng lớp học, từng địa phương. Từ ngữ được dùng làm ngữ liệu dạy trong môn Tiếng Việt 1 phải được chọn lọc trong phạm vi vốn từ văn hóa, có ý nghĩa tích cực, đảm bảo mục tiêu giáo dục phẩm chất, giáo dục ngôn ngữ, giáo dục thẩm mỹ và phù hợp với tâm lý học sinh. - Có giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu về kiểu văn bản và thể loại, chuẩn mực về sáng tạo và ngôn ngữ. 2.3.3. Cách thức lựa chọn, thay đổi ngữ liệu Đối với học sinh lớp 1 thì yếu tố trực quan đóng vai trò quan trọng nên các từ ngữ, ngữ liệu cũng phải đi kèm với hình ảnh, vì vậy giáo viên phải linh hoạt trong việc chọn ngữ liệu nào, hình ảnh nào cần dạy cho học sinh . Để thay thế ngữ liệu phù hợp thì giáo viên cần phải chọn lọc thật kỹ càng. Ngữ liệu đó phải đáp ứng kiến thức, nghĩa là có chứa âm vần của bài học, đáp ứng về mặt nhận thức của học sinh, gần gũi với đời sống của học sinh trong từng vùng miền. Với học sinh tiểu học, ngữ liệu cần đơn giản, trong sáng và dễ hiểu. Biện pháp lựa chọn và thay thế ngữ liệu có thể được thực hiện qua các bước sau: - Khảo sát các ngữ liệu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1 và phân tích, đối chiếu với sự hiểu biết và vốn sống của học sinh ở vùng miền mà mình đang trực tiếp giảng dạy. Nếu không phù hợp giáo viên có quyền tìm ngữ liệu thay thế. - Tím kiếm ngữ liệu thay thế phải đáp ứng về mặt kiến thức, nghĩa là có chứa âm, vần của bài học, đáp ứng về mặt nhận thức của học sinh, gần gũi với đời sống của học sinh trong từng vùng miền. Với học sinh tiểu học, ngữ liệu cần đơn giản, trong sáng và dễ hiểu. - Thông qua tổ chuyên môn để thống nhất ý kiến và quyết định làm ngữ liệu chung cho một khối lớp ngay trong một trường; - Thông báo tới phụ huynh để phụ huynh biết, phối hợp với phụ huynh trong quá trình học tập của các em đạt được hiệu quả - Tiến hành sử dụng ngữ liệu: Khi chọn thay thể một ngữ liệu nào đó, thì giáo viên có thể in ngữ liệu mới, kẹp vào sách có bài học rồi dạy theo ngữ liệu mới cho cả lớp, đồng thời nhắn đến nhóm lớp cho phụ huynh được biết. Đối với các em học tốt, giáo viên vẫn nên khuyến khích đọc cả hai phần ngữ liệu nhằm phát triển vốn từ cho các em, đó cũng là một ưu điểm cho việc thay đổi ngữ liệu. Còn đối với các em gặp khó khăn trong việc đọc thì chỉ cần học theo ngữ liệu mới. Khi chọn thay thể một ngữ liệu nào đó, thì ngữ liệu đó phải chứa đơn vị ngôn ngữ cần dạy trong bài học (âm, vần và tiếng,..), đồng thời phải chú ý ngữ liệu đó biểu thị những sự vật hiện tượng gần gủi với sự hiểu biết và vốn sống của học sinh. Ví dụ đối với một số hình ảnh khó như “cầm sâm”, giáo viên có thể giải thích qua và cho học sinh quan sát hình ảnh con cầm sâm trong sách giáo khoa để học sinh có thể biết và phân biệt được với những loài vật tương tự. Bên cạnh đó giáo viên có thể thay đổi hình ảnh “cầm sâm” bằng hình ảnh “mâm cổ” là một hình ảnh khá gần gũi với các em học sinh nên phát huy tính tích cực của học sinh trong việc nói, dễ dàng nhận diện được tiếng mới và phát hiện được âm mới, từ đó có thể phát triển được nhiều tiếng mới hơn. Khi khảo sát bộ sách Tiếng Việt 1 sách Cánh Diều, tôi thấy có sử dụng một số từ ngữ là phương ngữ của miền Nam. Chẳng hạn như từ “nhá”, “vô”,.. Tuy nhiên đây là những phương ngữ thông dụng và tiếp nhận rất nhẹ nhàng bởi sách giáo khoa làm cho cả nước thì không thể tránh khỏi sử dụng phương ngữ. Với những từ này, giáo viên có thể dạy như bình thường, đồng thời giải thích, đưa từ ngữ cùng nghĩa mà người miền Bắc hay dùng để các em hiểu nghĩa và học được thêm từ vựng. KẾT LUẬN Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về mục tiêu, nội dung, chương trình, quan điểm xây dựng chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể nói chung và SGK Tiếng Việt 1 nói riêng và tìm hiểu thực tiễn dạy và học sách Tiếng Việt 1 trong năm học 2020 - 2021, bài viết đã đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt 1 theo chương trình mới, cụ thể là các biện pháp: sử dụng trò chơi vào hoạt động dạy học, chủ động và linh hoạt trong việc lựa chọn ngữ liệu; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giờ học. Tuy nhiên, để vận dụng các biện pháp đó vào trong các giờ học cụ thể có hiệu quả, giáo viên phải có khả năng vận dụng phương pháp dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với từng nội dung dạy học và đối tượng học sinh cụ thể. Bên cạnh đó, yếu tố cơ sở vật chất, phòng học, phương tiện, đồ dùng dạy học và các tài liệu liên quan cũng góp phần quan trọng trong việc đưa lại sự thành công cho mỗi tiết dạy.
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_mon_tie.docx