SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy chính tả so sánh phụ âm đầu cho học sinh Lớp 4
Cơ sở tâm lý học:
- Mục đích dạy chính tả là hình thành cho học sinh năng lực viết thành thạo thuần thục chữ viết Tiếng Việt theo các chuẩn chính tả, nghĩa là giúp học sinh hình thành các kĩ xảo chính tả.
- Hình thành cho học sinh kĩ xảo chính tả nghĩa là giúp học sinh viết đúng chính tả một cách tự động hoá, không cần phải trực tiếp nhớ tới các quy tắc chính tả, không cần đến sự tham gia của ý chí. Để dạt được điều này, có thể tiến hành theo hai cách: Có ý thức và không có ý thức. Cách không có ý thức (còn gọi là phương pháp máy móc, cơ giới) chủ trương dạy chính tả không cần biết đến sự tồn tại của các quy tắc chính tả, không cần hiểu mối quan hệ giữa ngữ âm và chữ viết, những cơ sở từ vựng và ngữ pháp chính tả, mà chỉ đơn thuần là việc viết đúng từng trường hợp, từng từ cụ thể. Cách dạy học này tốn nhiều thời giờ, công sức và không thúc đẩy được sự phát triển của tư duy, chỉ củng cố trí nhớ máy móc ở một mức độ nhất định. Cách có ý thức (còn gọi là phương pháp có ý thức, có tính tự giác) chủ trương cần phải bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc, các mẹo luật chính tả. Trên cơ sở đó, tiến hành và từng bước đạt tới các kĩ xảo chính tả. Việc hình thành các kĩ xảo bằng con đường có ý thức sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức. Đó là con đường ngắn nhất và có hiệu quả cao nhất. Đối với học sinh tiểu học cần vận dụng cả hai cách nói trên. Trong đó cách không có ý thức chủ yếu được sử dụng ở các lớp đầu cấp, còn cách có ý thức cần được sử sụng thích hợp chủ yếu ở các lớp cuối cấp.
Gần đây một số nhà nghiên cứu vấn đề dạy - học chính tả lại có xu hướng khẳng định trong các cách học, cách “nhớ từng chữ một” (cách không có ý thức) được coi là giải pháp hữu hiệu hơn cả, hợp lý hơn cả, nhất là đối với học sinh tiểu học (bởi vì học sinh độ tuổi tiểu học có khả năng ghi nhớ máy móc khá tốt, khả năng học thuộc khá nhanh). Theo cách này, học sinh chỉ cần tập trung nhớ mặt chữ của những từ dễ viết sai. Những từ dễ viết sai này chiếm tỷ lệ không nhiều, do đó, học sinh có thể ghi nhớ được. Vì vậy việc dạy học chính tả ở trường tiểu học không nên tập trung vào các “trọng điểm chính tả” mà gây sự dàn trải, tản mạn, được như vậy thì chất lượng, hiệu quả dạy học chính tả sẽ được nâng cao.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy chính tả so sánh phụ âm đầu cho học sinh Lớp 4

ần chú ý tập trung hơn. 6.1.4/ Rèn cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết: Một số em trong khi viết bài còn lơ là quen thói cẩu thả nên còn sai lệch giữa các chữ: giữa q/ p , giữa n / u , giữa ng / ngh , giữa o / ô , giữa iê / yê , giữa v / d và viết hoa tuỳ tiện hoặc không viết hoa những từ cần viết hoa. Vì vậy cần rèn cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết. - Trước hết GV nhắc nhở học sinh ngồi đúng tư thế, cách cầm bút, cách để vở đúng qui định, hướng dẫn các em viết đúng mẫu chữ qui định, không được viết thừa nét, thiếu nét, trình bày đúng theo qui định của mỗi loại bài chính tả (Văn xuôi - thể thơ) . - Sau đó GV cho lớp quan sát bài viết đẹp, nêu gương học sinh viết và trình bày bài viết sạch đẹp, có điểm cao cho cả lớp xem. - GV thường xuyên nhận xét chữ viết của học sinh qua mỗi bài viết, tuyên dương những học sinh tiến bộ trong việc rèn chữ viết. Hình thức này đã giúp cho học sinh ý thức rèn chữ viết, cẩn thận hơn trong khi viết. - Cho HS làm sổ riêng để luyện chữ viết, GV có theo dõi, nhắc nhở và chấm bài theo định kỳ hàng tuần. 6.1.5/ Rèn cho học sinh ý thức tập trung khi viết: Tập cho học sinh có một thói quen biết tập trung trong cách viết cần chú ý những đìều sau: : - Phối hợp các hành động: nghe – nhìn, phát âm chuẩn – nhớ và viết trong giờ học chính tả, cũng như trong giờ học các phân môn khác. - Khi GV đọc bài HS phải nhẩm chữ nhớ cả cụm từ sau đó mới viết, không nên viết liền khi GV vừa mới đọc, phải viết các con chữ rõ ràng. - Trong giờ viết chính tả tuyệt đối không nói chuyện, không nhẩm bài to, lắng nghe thầy cô đọc bài rồi nhẩm lại tay viết, mắt nhìn vở, nhìn chữ. - GV luôn theo dõi biểu dương kịp thời những học sinh có ý thức viết đúng, viết đẹp trong lớp qua các tiết học, cổ vũ động viên lôi cuốn những học sinh còn viết chưa đúng học tập theo bạn. 6.1.6/ Giúp học sinh nắm vững các mẹo luật chính tả: Một số học sinh còn sai lỗi chính tả do không nắm vững qui tắc chính tả, do phát âm địa phương và do quen với hình thức chữ viết. Vì vậy giáo viên cần giúp học sinh nắm vững thuật nhớ và các mẹo chính tả trong từng trường hợp mắc lỗi của học sinh. Sau đây xin trình bày một số mẹo chính tả mà học sinh thường mắc : a) Phân biệt ch / tr: a.1/ Thuật nhớ cách viết phân biệt ch / tr dựa vào nét nghĩa chung: - Từ chỉ người thân trong gia đình, họ hàng đều viết với ch . Ví dụ : cha, chú, chồng, chị, cháu, chắt, chút , chít - Từ chỉ đồ dùng, dụng cụ nhà nông phần lớn viết với ch . Ví dụ : chai, chảo, chày, chạn, chăn, chiếu, chậu, chén, chĩnh, chuỗi hạt, dây chuyền, chuôi dao, * Ngoại lệ : bàn trang, bức tranh, cái tráp, cái trống. - Tên động vật sống gần người, chim muôn, cá phần lớn được viết với ch . Ví dụ : chó, gà chọi, chàng hiu, châu chấu, con chí, chim chóc, chèo bẻo, chìa vôi, chích choè, chiền chiện, con chồn, con chuột, cá chim, cá cháo, cá chẻm, cá chuối, cá chép, * Ngoại lệ :cá tra, con trai, cá trích , trôi, trê, chim trĩ, con trâu, con trùn (con giun). - Tên cây và hoa quả phần lớn viết với ch. Ví dụ : cây chò, cây chỉ, cây chàm, chòi mòi, chôm chôm, * Ngoại lệ : sơn trà, trà mi, cây trám, trầm hương, trinh nữ, - Tên các món ăn phần lớn viết với ch. Ví dụ : chả, chao, cháo, bánh chay, bánh chưng, chè, * Ngoại lệ : bánh tráng, bánh trôi. - Cử động thao tác của cơ thể, động tác lao động chân tay thường viết với ch. Ví dụ : chà đạp, chải chuốt, chao đảo, cúi chào, chạy nhảy, chăm bón, chắp vá, chấm bài, che đậy, chế biến, chuyên chỡ, chuyền bóng, chửi mắng, * Ngoại lệ : trề môi, tay trỏ, trùm khăn, trổ hình. - Từ công cụ biểu thị ý phủ định, khước từ, nghi vấn thường viết với ch. Ví dụ : chả lẽ, chắc hẳn, chẳng lẽ, chớ hề, chưa hề, chưa chừng, - Từ chỉ vị trí trong không gian, thời gian, trình tự, thướng viết với tr : Ví dụ : trên, trong, trước hết, trước tiên, trước sau, trở lên trên, trở xuống, a. 2/ Căn cứ vào âm đệm để phân biệt ch / tr: Phụ âm tr rất hiếm khi đứng trước âm đệm, tức rất ít khi đứng trước các vần oa, oă, oe, uê, ngoại trừ chữ gốc hán như : truân, truất, truy, truyền, truyệnVậy trước một vần có âm đệm thì ta nên viết ch. Ví dụ : choạc, choai choai, choáng mắt, choàng áo, chích choè, Ngoài ra còn một số cách khác để phân biệt như : dựa vào đặc điểm từ láy âm; dựa vào nghĩa của từ để phân biệt; dựa vào từ đồng nghĩa. b) Phân biệt s / x : b.1/ Dựa vào nét nghĩa chung : - Từ chỉ cây cối, hoa quả và rau viết với s : Ví dụ : sa sâm, sài đất, sài hồ, cam sành, săng lẻ, sầu riêng, vú sữa, rau sam, * Ngoại lệ : xà cừ, xà nu, cây xoài, cây xoan, xương rồng, cỏ xước. - Tên chim cá, muông thú, côn trùng viết với s : Ví dụ : san hô, sao biển, hươu sao, sáo sậu, săn sắt, cá sấu, sâu bọ, chim sâu, con sò, sóc, sói, * Ngoại lệ : xén tóc, mãng xà, bọ xít, xoắn trùng. - Từ chỉ sự vật và hiện tượng tự nhiên viết với s : Ví dụ : sa mạc, ánh sáng, sẫm tối, sấm chớp, sình lầy, sóng thần, sơn lâm, suối, - Những từ có nghĩa “sụp xuống”, “ giảm sút” viết với s : Ví dụ : sa sẩy, sa sút, sạt lở, đổ sập, suy sụp, - Tên một số bệnh viết với s : Ví dụ : sản giật, sẩn ngứa, sổ mũi, sốt rét, sởi, suyễn, - Nhiều đồ vật viết với s : Ví dụ : sa bàn, sà lan, cây sào, cái sịa, cái sọt, sơ đồ, - Tên các thức ăn và đồ dùng liên quan tới việc nấu ăn viết với x : Ví dụ : thịt xá xíu, nước xá xị, phở xào, xi rô, xì dầu, xíu mại, xốt cá chua * Ngoại lệ : kẹo sô cô la, bánh su sê, kem sữa, bánh sừng bò, canh sườn. - Một số vật thể và dụng cụ viết với x : Ví dụ : vải xa tanh, xà beng, gỗ xà cừ, xà nhà, xà cột, xà mâu (vũ khí), xà phòng, túi xách, xi măng, cối xay, cái xẻng, thùng xô, cái xửng, b. 2/ Căn cứ vào âm đệm để phân biệt s / x : - s rất ít kết hợp với các vần oa, oă, oe, uê, Trước những vần này thường viết với x : xoa đầu, tóc xoăn, mùa xuân, xoè hoa, xuề xoà, vòng xuyến, xuý xoá * Ngoại lệ : soạn bài, rà soát, sột soạt, sờ soạng. Ngoài ra còn một số cách khác để phân biệt như: dựa vào đặc điểm từ láy âm; dựa vào nghĩa của từ để phân biệt. c. Đối với g – gh: - GV chú ý hướng dẫn HS vận dụng có ý thức một số qui tắc để làm căn cứ, giúp cho học sinh biết phân loại, so sánh và viết đúng các trường hợp chính tả. - GV gợi cho học sinh nhớ lại qui tắc chính tả và nêu ra : + “ngh” kết hợp được với các nguyên âm: i, e, ê, iê, ia. + “ng” kết hợp được với các nguyên âm:a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, uô, ươ, ua, ưa. Cho học sinh chép lại vào sổ tay chính tả và ghi nhớ. - Ngoài ra học sinh cũng hay nhầm lẫn khi viết các từ có phụ âm đầu “g” và “ gh”.Tuy “g” và “ gh” khác nhau nhưng lại đọc giống nhau nên khi viết các em thường nhầm chúng với nhau. Chẳng hạn : ghen -> gen Muốn viết đúng phụ âm này cần phải ghi nhớ khả năng kết hợp chúng với các vần có nguyên âm khác nhau. Cụ thể: + “g” kết hợp với các vần có nguyên âm : a, â, ă, o, ô, ơ, u, ư, uô, ươ không kết hợp được với ua, ưa. Cho học sinh tìm ví dụ như : gà, gắt gõng, gầy gò, gượng dậy * Lưu ý cho học sinh : Trong Tiếng Việt không có từ : gua, gùa, gựa, gưa, gứa + “gh” kết hợp được với các vần có nguyên âm: i, e, ê không kết hợp được ia. Cho học sinh tìm ví dụ như : ghế, ghé thăm * Lưu ý cho học sinh : Trong Tiếng Việt không có từ ghia, ghịa, ghía, ghìa, ghỉa GV yêu cầu và tổ chức các em đọc thêm nhiều sách báo, truyện kể ở nhà và ở lớp ( trong các giờ tự học, giờ sinh hoạt lớp để các em luỵên nhớ và quen với các hình thức chữ viết. - GV hướng dẫn cho học sinh thuật nhớ các trường hợp chính tả trên bắng cách + Cho học sinh luyện viết từ khó kĩ trước khi viết bài vào vở (Viết nháp). + Cho học sinh luyện thêm bài tập chính tả theo từng trường hợp. 6.1.7/ Giúp học sinh hiểu nghĩa của từ để viết đúng chính tả. Như chúng ta đã biết, có hiểu biết được nghĩa của từ thì học sinh mới có thể viết đúng chính tả được. Ví dụ: có hiểu nghĩa của từ : “cỏ xước” (là loài cỏ có quả nhọn như gai, hay bám vào quần áo) thì học sinh mới viết đúng từ “cỏ xước”. Chính vì thế nên những em không nắm được nghĩa của từ, nghe hiểu từ còn hạn chế thì dẫn đến viết sai. Ttrước lúc viết từ khó GV cho học sinh nêu nghĩa của từ bằng cách mô tả sơ lược, tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa hoặc đặt câu với từ đó. 6.1.8/ Chú ý phát hiện và sửa lỗi chính tả kịp thời cho học sinh trong tất cả các hoạt động học tập. Trong dạy học tất cả các môn , các tiết học, khi học sinh viết bảng con trong lớp, làm bài tập, chơi trò chơi,... Khi GV chấm bài, xem vở học sinh cần luôn chú ý thực hiện và sửa lỗi chính tả kịp thời cho học sinh, rèn cho các em ý thức viết đúng chính tả. Ví dụ : Khi chấm bài xong GV nêu ra những lỗi phổ biến trong bài, rồi cho HS tự nêu cách chữa, sau đó ghi vào sổ tay để ghi nhớ. 6.1.9/ Chấm chữa lỗi bài chính tả. Trong bước soát lại bài viết (sử dụng bài viết ở bảng đen) giáo viên đưa ra mẫu đúng một số từ có vấn đề chính tả. Yêu cầu học sinh phân tích âm tiết đúng rồi đối chiếu với chữ mình và tự chữa (nếu sai). Đối với những em mắc lỗi, giáo viên có thể gọi và hỏi: Trong bài viết em đã mắc những lỗi nào? Những lỗi đó thường gặp ở bộ phận nào của tiếng?Dần dần năng lực kiểm tra và tự chữa của học sinh được hình thành. Tiếp theo, GV gọi một em mắc lỗi nhiều lên bảng đọc lại và viết lại cho đúng một trong các từ đã sai, lớp nhận xét đúng, sai và chữa lại hoàn chỉnh. Khi chấm bài chính tả GV dùng bút mực đỏ gạch chân những lỗi mắc phải và học sinh về nhà tự chữa lại cho đúng vào vở (Giáo viên có kiểm tra). Ngoài các biện pháp trên, GV cần phải chú ý một số điều quan trọng sau đây : - Phải tổ chức luyện tập thường xuyên về chính tả. - Phải phân loại các lỗi chính tả để tìm cách khắc phục thích hợp từng loại. - Phải phối hợp sinh động giữa phương pháp dạy có ý thức với phương pháp không có ý thức, phương pháp tích cực và phương pháp tiêu cực. ** Một số bài minh hoạ: 1. Một số ví dụ về bài khó và cách dạy a) Bài: (Nghe –viết) “Người tìm đường lên các vì sao” Tuần 13 – TV4 tập 1- trang 126. *Nội dung : Bài tập (2).a) Tìm các tính từ : - Có hai tiếng đều bắt đầu bằng l. M: lỏng lẻo - Có hai tiếng đều bắt đầu bằng n. M: nóng nảy *Những khó khăn: - Học sinh phải thực hiện theo hai yêu cầu : + Một là: Từ tìm được thuộc loại tính từ. + Hai là: Cả hai tiếng đều bắt đầu bằng l hoặc n. Như vậy từ này có thể là từ ghép hoặc từ láy. Qua bài tập này tôi thấy học sinh sẽ rất lúng túng, dễ nhầm lẫn, khó tìm được từ phù hợp cả hai yêu cầu trên. Nguyên nhân là do vốn từ của học sinh còn hạn chế. * Để giúp học sinh làm tốt bài tập này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh như sau: - Giúp học sinh phân tích nắm vững yêu cầu của bài tập. - Giúp học sinh chữa một phần của bài tập làm mẫu. - Tổ chức cho học sinh làm theo nhóm để trao đổi học tập lẫn nhau. - Đại diện nhóm báo cáo kết quả. - Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. b) Bài :”Những hạt thóc giống” ; Phân biệt l/n, en/eng: Tuần 5 *Nội dung : Bài tập (3). Giải những câu đố sau: a) Tên con vật chứa tiếng bắt đầu bằng l / n. Mẹ thì sống ở trên bờ Con sinh ra lại sống nhờ dưới ao. Có đuôi bơi lội lao xao Mất đuôi tức khắc nhảy nhao lên bờ. (Là con gì?) * Khó khăn : Học sinh sẽ lúng túng, khó tìm được con vật phù hợp với yêu cầu của câu đố. Học sinh có thể hiểu được nội dung câu đố, đoán được là con cá nhái nhưng không tìm được tiếng bắt đầu bằng l hoặc n. Do vốn hiểu biết về tự nhiên của các em còn hạn chế. * Cách dạy : - Cho học sinh đọc yêu cầu và nội dung câu đố. - Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích tìm hiểu từng dòng thơ của câu đố. - Cho HS trao đổi trong nhóm tìm lời giải. - Cho học sinh trình bày kết quả bằng hình thức thi đua: Ghi nhanh lời giải lên bảng. - Tổ chức cho HS nhận xét, rút ra lời giải đúng. Nếu HS thảo luận, trao đổi trong nhóm mà không tìm được lời giải thì giáo viên dùng câu hỏi gợi ý như sau: + Con gì sống trên bờ nhưng đẻ trứng dưới nước? (ếch nhái). + Trứng nở ra thành con gì? (nòng nọc). Đây là vấn đề học sinh cần phải phát huy vốn hiểu biết của mình về cuộc sống tự nhiên để có câu trả lời đúng. Sau cùng giáo viên giải thích thêm cho học sinh hiểu và giáo dục lòng yêu thiên nhiên. c) Bài : “ Chiếc áo búp bê”; Phân biệt s/x, ât/âc – Tuần 14. * Nội dung : BT2 và BT3 trang 136 Tiếng Việt 4 – tập 1. Bài (2). Điền vào ô trống: a) Tiếng bắt đầu bằng s hay x? (Để hoàn chỉnh đoạn văn). b) Tiếng chứa vần ât hay âc? (Để hoàn chỉnh đoạn văn). Bài (3).Thi tìm các tính từ: a) Chứa tiếng bắt đầu bằng s hoặc x. b) Chứa tiếng có vần âc hoặc ât. * Những khó khăn: - Học sinh dễ nhầm lẫn và rất khó làm vì bài tập gồm hai yêu cầu: Một là, thuộc từ loại tính từ. Hai là, tiếng có chứa âm, vần cho trước. *Cách dạy: Giáo viên có thể giúp học sinh hoàn thành hai bài tập qua các bước sau : - Giáo viên giúp học sinh phân tích tìm hiểu yêu cầu của BT. - Giúp học sinh làm một phần của BT. - Tổ chức cho học sinh làm theo nhóm để trao đổi học tập lẫn nhau. - Đại diện nhóm báo cáo kết quả. - Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Đối với BT3, sau khi HS nhận xét xong giáo viên có thể bổ sung thêm một số tính từ. Ví dụ : a) siêng năng, sảng khoái, sáng suốt, sành sỏi, b) xấc xược, lấc cấc, vất vả, chất phác, ngất ngưỡng III/ PHẦN KẾT LUẬN: 1. Những vấn đề chính đã được giải quyết: Trên đây là đề tài sáng kiến, tôi đã phân tích những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiển của đề tài đó là một số vấn đề ngôn ngữ học liên quan đến đề tài, các ưu điểm về chương trình SGK, nội dung và phương pháp dạy học chính tả lớp 4. Thực trạng dạy học chính tả lớp 4 trên cơ sở những vấn đề đã được trình bày, tôi nêu một số kinh nghiệm dạy chính tả phù hợp với học sinh lớp 4 ở đơn vị trường TH Phong Tân. Đó là các kinh nghiệm khai thác nội dung dạy học lựa chọn các hình thức dạy học và khai thác các đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung bài học, phù hợp với đối tượng học sinh cụ thể. Tôi đã phân tích những kinh nghiệm này qua ví dụ minh hoạ. Những biện pháp này đã được chúng tôi sử dụng trong thực tiển và bước đầu thu được kết quả tích cực. 2. Một số kiến nghị: - Cần đưa ra những quy ước cụ thể tiện dùng và thống nhất cho từng trường hợp viết hoa. - Đề nghị các cấp quản lý tăng cường các tài liệu tham khảo về phân môn dạy chính tả. - Tổ chức các buổi tập huấn chuyên môn về chuyên đề dạy học chính tả theo chương trình cải cách hiện hành. - Nên để cho các thầy cô giáo được chủ động tự lựa chọn hoặc thay đổi nội dung phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình dạy. - Cho phép giáo viên được sử dụng giáo án cũ để có thời gian nghiên cứu đầu tư vào tiết dạy (có bổ sung, chọn lọc cái mới cái hay) nhằm đáp ứng hiệu quả cho giờ dạy. * * * Sau một thời gian nghiên cứu, tuy đã hoàn thiện, xong trong khoảng thời gian nghiên cứu có hạn, việc làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm đối với tôi vẫn còn lung túng, vì vậy việc làm còn rất nhiều hạn chế. Nội dung của đề tài SKKN khó tránh khỏi những thiếu sót, chưa cập nhật kịp thời những thông tin mới. Tôi rất mong được sự góp ý trân thành của quý thầy cô tập thể nhà trường. Xin cảm ơn! Phong Tân, ngày 01/03/2012. Người viết SKKN Trương Vũ Phương
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_bai_day_chinh_t.doc