SKKN Một số biện pháp giúp giáo viên nâng cao hiệu quả khi rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1 ở trường Tiểu học Vĩnh Hưng

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1.

1. Khái niệm: Đọc là gì?

Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển từ dạng thức chữ viết sang dạng lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với các hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức dạng chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh ( ứng với đọc thầm). M.R. Lơ vôp - Cẩm nang dạy học tiếng Nga.

Đọc không chỉ là công cụ giải quyết bộ mã gồm hai phần chữ viết và phát âm, nghĩa là nó không chỉ là sự đánh vần lên thành tiếng theo đúng như các kí hiệu đã viết mà đọc còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu nội dung những gì được đọc.

2. Ý nghĩa của việc đọc :

Nếu không biết đọc con người sẽ không có điều kiện hưởng sự giáo dục dành cho họ, không thể hình thành một cách toàn diện. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trong xu thế toàn cầu hoá và phát triển mạnh mẽ về khoa học, công nghệ đòi hỏi con người phải thông hiểu và việc đọc để nắm bắt thông tin lại càng cần thiết để tiếp cận nó như đọc qua báo chí, sách, truyện, đọc và khai thác thông tin qua mạng…

Vì vậy việc dạy đọc có ý nghĩa vô cùng quan to lớn ở Tiểu học. Đọc trở thành một yêu cầu cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đọc sẽ giúp trẻ chiếm lĩnh được một ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập, nó là công cụ để học các môn khác.

Đọc một cách có ý thức sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của học sinh. Qua bài dạy tập đọc có giá trị về nội dung, nghệ thuật giúp các em mở rộng hiểu biết về thiên nhiên, về đời sống con người, về văn hoá và phong tục tập quán của các dân tộc trên thế giới; Các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong cuộc sống; Bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, tâm hồn cho học sinh. Đó là yếu tố quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.

docx 19 trang Thu Nga 28/06/2025 340
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp giáo viên nâng cao hiệu quả khi rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1 ở trường Tiểu học Vĩnh Hưng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp giúp giáo viên nâng cao hiệu quả khi rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1 ở trường Tiểu học Vĩnh Hưng

SKKN Một số biện pháp giúp giáo viên nâng cao hiệu quả khi rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1 ở trường Tiểu học Vĩnh Hưng
 – SGK TV1/2 trang 55
     Bình yêu lắm đôi bàn tay rám nắng, / các ngón tay gầy gầy,/ xương xương của mẹ.//
Khi luyện đọc câu này, HS cần chú ý trong câu có 2 dấu phẩy, do đó HS cần có ý thức ngắt hơi ở dấu câu.
Ví dụ 2: Bài “ Hoa ngọc lan” – SGK TV1/2 trang 64
     Vào mùa lan, /sáng sáng, /bà thường cài một búp lan lên mái tóc em.
Khi HS có ý thức ngắt nghỉ qua dấu câu, người nghe sẽ hiểu rõ nội dung cần truyền đạt của câu. Và ngắt nghỉ đúng cũng giúp HS đỡ mệt nếu gặp câu dài.
* Ngắt nghỉ theo ngữ nghĩa:
Tuy nhiên, sự phân chia lời ở dạng nói thanh ngữ nhiều đoạn không được ghi lại bằng dấu câu trong ngôn ngữ viết. Ví dụ câu ngừng giọng giữa chủ ngữ và vị ngữ, giữa động từ và bổ ngữ thể hiện trong câu:
Trường học là ngôi nhà thứ hai của em.
(Bài : Trường em – SGK TV1/2 trang 46)
Có thể hướng dẫn học sinh ngắt giọng sau từ “Trường học”. Song để xác định chỗ ngắt giọng này, giáo viên cho học sinh khai thác để hiểu: Bạn nhỏ gọi gì là ngôi nhà thứ hai của em? Khi học sinh trả lời giáo viên cần lưu ý học sinh: để người nghe hiểu rõ hơn con đã gọi trường học là ngôi nhà thì khi đọc con cần ngắt giọng sau từ trường học. Trong trường hợp trên chỗ ngắt giọng không trùng hợp với dấu hiện trong câu.
Đó là chưa kể trong thơ, hầu như người ta đã lược bỏ dấu câu hay ở các bài văn xuôi, tác giả đã không dùng các dấu phẩy như yêu cầu ngữ pháp ở nhà trường. Đây chính là lý do để các giáo viên khi dạy tập đọc cho học sinh xác định chỗ ngắt, nghỉ trong mỗi câu văn cho hợp với ngữ nghĩa của bài, phù hợp với khả năng giữ hơi của học sinh để luyện đọc.
Ví dụ1 : Bài Mưu chú Sẻ - SGK TV1/2 trang 70:
Mèo rất tức giận nhưng đã muộn mất rồi. 
Tuy trong câu không có dấu phẩy, nhưng để đọc đúng ngữ nghĩa của câu, học sinh có thể ngắt, nghỉ như sau:
Mèo rất tức giận / nhưng đã muộn mất rồi.//
Ngoài ra, khi HS đọc một câu dài, nếu chỉ ngắt hơi sau dấu phẩy, các em cũng không đủ hơi để đọc hết câu một cách rành mạch. Do đó, giúp HS ngắt nghỉ theo nghĩa là rất cần thiết
Ví dụ 2:Bài Chú công – SGK TV1/2 trang 97:
Sau vài giờ, công đã có động tác xòe cái đuôi nhỏ xíu thành hình rẻ quạt.
Đây là một câu dài và khó. Nếu chỉ ngắt sau chữ giờ HS sẽ không đủ hơi để đọc tiếp. Giáo viên có hướng dẫn HS ngắt nghỉ như sau:
Sau vài giờ,/ công đã có động tác/xòe cái đuôi nhỏ xíu/ thành hình rẻ quạt.//
Như vậy, HS sẽ đọc câu khó một cách dễ dàng và cũng giúp các em hiểu nội dung của câu dễ dàng hơn.
* Ngắt nhịp khi đọc thơ:
Trong chương trình lớp 1 có rất nhiều bài thơ. Khi đọc HS thường mắc lỗi là do các em chưa tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ một cách tự nhiên, nếu không được lưu ý về nghĩa học sinh sẽ ngắt nhịp tạo ra sự cân đối âm thanh khi đọc từng câu thơ. Các lỗi học sinh khi đọc thơ hay ngắt sai là:
Thơ 4 tiếng: 2/2
5 tiếng: 2/3
7 tiếng:3/4, 4/3 hoặc 2/2/3
Thơ lục bát:2/2/2
Vì vậy nhiều bài học sinh đã đọc sai:
Em yêu/ ngôi nhà
Hàng xoan /trước ngõ
Hoa xao/ xuyến nở
Như mây /từng chùm.
Mỗi sớm/ mai thức dậy
Lũy tre/ xanh rì rào
Ngọn tre/ cong gọng vó
Kéo mặt/ trời lên cao.
Cái Bống/ là cái /bống bang
Khéo sảy,/ khéo sàng/ cho mẹ/ nấu cơm.
Những trường hợp trên bị coi là ngắt giọng sai .
Việc học sinh ngắt giọng sai phản ánh một cách hiểu sai về nội dung ngữ nghĩa. Để khắc phục những hạn chế này, cần có thêm hệ thống câu hỏi ngắn gọn, vừa sức, dễ hiểu để phục vụ cho việc đọc hiểu một cách thuận lợi đối với HS lớp 2.
     2.3. Rèn đọc nhanh:
Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy là một phẩm chất của đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng. Khi đọc cho người khác nghe, người đọc phải để cho người nghe kịp hiểu được. Vì vậy, đọc nhanh không có nghĩa là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói.
Trong mỗi tiết dạy, để hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ đọc, giáo viên cần đọc mẫu để các em đọc theo tốc độ đã định, đồng thời “cầm càng” giữ nhịp đọc, điều chỉnh tốc độ cho học sinh bằng các lệnh “đọc nhanh hơn”, “đọc chậm lại”. Ở những đoạn khó, bài khó giáo viên cần đọc theo học sinh để giữ nhịp đọc. Ngoài ra, ta nên sử dụng biện pháp đọc nối tiếp trước lớp từng câu, từng đoạn để có nhiều học sinh cùng được luyện đọc nhưng có sự kiểm tra của thầy, của bạn để điều chỉnh về tốc độ.
Việc rèn luyện kỹ năng đọc to, lưu loát, trôi chảy, biết ngắt giọng đúng là bước đệm quan trọng để đọc diễn cảm từ đó học sinh chiếm lĩnh nội dung bài học một cách chắc chắn.
Biện pháp thứ sáu: Rèn đọc diễn cảm
Mục tiêu:
Học sinh bước đầu biết đọc diễn cảm.
Học sinh  biết đọc phân vai ,luyện đọc theo nhóm .
Tạo không khí vui, hào hứng cho giờ đọc.
Cách tiến hành:
     2.1. Ngắt nghỉ biểu cảm:
     Ngắt nghỉ biểu cảm là ngừng giọng đọc lâu hơn bình thường hoặc ngừng không do lôgic mà do dụng ý của người đọc nhằm gây ấn tượng về cảm xúc, tập trung sự chú ý của người nghe vào những từ ngữ sau chỗ ngừng, những từ ngữ trọng tâm ngữ nghĩa góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao. Đây là một sự ngắt giọng có ý đồ nghệ thuật.
Ví dụ: Bài              Nói dối hại thân – SGK TV1/2 trang 133:
Chú bé còn nói dối như vậy/ vài ba lần nữa.
      Ngắt giọng biểu cảm cũng thể hiện ở sự lựa chọn trong những cách ngắt nhịp đúng, một cách ngắt nhịp có hiệu quả nghệ thuật hơn, đem lại cho người nghe sự nhịp nhàng trong giai điệu của vần thơ, chẳng hạn như:
Ví dụ: Bài Quà của bố - SGK TV1/2 trang 85
Bố gửi/ nghìn cái nhớ
Gửi cả/ nghìn cái thương
Bố gửi /nghìn lời chúc
Gửi cả/ nghìn cái hôn.
Hướng dẫn ngắt nghỉ biểu cảm không chỉ rèn cho học sinh lớp 1 mà rất quan trọng với học sinh lớp trên. Song để học sinh lớp trên có thói quen đọc ngắt giọng biểu cảm thì ở lớp 1 giáo viên cũng cần hướng dẫn làm quen dần với cách đọc này.
     2.2. Đọc diễn cảm:
Đối với học sinh lớp 1 chỉ yêu cầu học sinh bước đầu biết đọc diễn cảm.
Khi hướng dẫn học sinh đọc, các em không thể đọc diễn cảm khi chúng ta chỉ dừng lại ở những chỉ dẫn: “Em cố gắng đọc cho hay hơn, cố gắng đọc cho diễn cảm hơn” hay cụ thể hơn một chút: “Em cố gắng đọc cho vui hơn, đọc cho nhẹ nhàng, thiết tha hơn”.
Vì vậy, để giúp học sinh làm chủ được giọng đọc, giáo viên cần có những chỉ dẫn rõ ràng, cụ thể như: Ở cuối câu có dấu chấm hỏi thì con cần đọc cao giọng. Hay: “từ này con cần đọc nhấn giọng, từ này con cần đọc kéo dài giọng, từ này con cần đọc ”.
Ví dụ: Bài Vì bây giờ mẹ mới về SGK TV1/2 trang 88
Câu: Con làm sao thế?
        Đứt khi nào thế?
        Sao đến bây giờ con mới khóc?
Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét ở cuối câu có dấu chấm hỏi. Do đó, khi đọc cần cao giọng ở cuối câu.
Đồng thời, giáo viên rèn cho học sinh có thói quen biết nghe và nhận xét về giọng đọc, giải thích vì sao đọc như thế là hay, đọc như thế là chưa hay. Cuối cùng với nhận xét của học sinh trong lớp, giáo viên phối hợp nhịp nhàng lời mô tả giọng đọc của học sinh để học sinh nhận ra cách đọc đúng, đọc hay mà các em cần hướng tới.
Bên cạnh cách luyện đọc nêu trên, giáo viên nên thường xuyên luyện tổ chức cho các em luyện đọc trong nhóm. Đọc từng đoạn theo nhóm sẽ giúp học sinh cả lớp cùng được đọc. Trong mỗi nhóm, các em sẽ cùng nghe bạn trong nhóm đọc, nhận xét và giúp bạn đọc tốt hơn. Chính vì vậy, khi phân nhóm cần xếp nhóm nào cũng có em đọc tốt và đọc chưa tốt để các em có thể hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau.
Ở những bài tập đọc có lời đối thoại của các nhân vật, giáo viên chú ý hướng dẫn học sinh biết thay đổi ngữ điệu để phân biệt lời kể của tác giả với lời của nhân vật, phân biệt lời của các nhân vật sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và tính cách của từng nhân vật.
Ví dụ: Bài Hai chị em – SGK TV ½ trang 115
Người dẫn truyện: Đọc chậm rãi, khoan thai.
Cậu em: Giọng đọc gắt gỏng, khó chịu.
Để giúp các em thể hiện tốt bài đọc, giáo viên lưu ý học sinh lời dẫn truyện cần đọc với giọng nhỏ hơn, thấp hơn những lời nói trực tiếp của nhân vật. Ngoài ra, ở những câu truyện như thế này, giáo viên nên cho học sinh đọc phân vai để làm sống lại những nhân vật của tác phẩm. Mỗi em sẽ đảm nhiệm thể hiện một giọng đọc của bài: một em trong vai người dẫn truyện, một em trong vai cậu em. Các em sẽ phải thể hiện được đúng lời của nhân vật mà mình đóng vai sao cho phù hợp với đặc điểm tính cách của nhân vật đó.
Để tạo không khí vui, hào hứng cho giờ đọc, giáo viên tổ chức cho các nhóm thi đọc phân vai (mỗi nhóm có số lượng tùy theo số nhân vật). Học sinh cả lớp cùng với cô giáo sẽ làm ban giáo khảo chấm điểm bình chọn bạn đọc thể hiện giọng nhân vật xuất sắc nhất, nhóm đọc hay nhất. Với cách tổ chức như trên, người giáo viên vừa tạo điều kiện cho nhiều học sinh cùng được luyện đọc, vừa tạo được hứng thú học tập cho học sinh.
       Trong mỗi tiết học việc dạy cho học sinh biết đọc diễn cảm, đọc phân vai, luyện đọc theo nhóm sẽ tạo không khí vui, hào hứng cho giờ đọc. Hiệu quả giờ học sẽ cao hơn.
Biện pháp thứ bảy : Luyện tập – Thực hành
Mục tiêu:
Học sinh được luyện tập, củng cố, nâng cao kĩ năng đọc.
Qua luyện tập, tránh được tình trạng đọc vẹt, giúp học sinh khắc sâu kiến thức.
Cách tiến hành:
Ở mỗi tuần tôi đều có phiếu giao việc nhằm dặn dò, đôn đốc các em ôn tập bài trên lớp.
     Ngoài luyện đọc các bài có sẵn trong sách giáo khoa, tôi khuyến khích học sinh luyện đọc sách báo. Những em học sinh nào có tiến bộ trong học tập, có nhiều cố gắng và ham luyện đọc tôi có phần thưởng nhỏ để khuyến khích các em, đó là những quyển truyện nhỏ, những bài thơ hay được in màu rất đẹp. Tôi động viên các em đọc những dòng chữ các em gặp xung quanh mình: biển cửa hàng, cửa hiệu, những thông báo của tổ dân phố. Em nào làm được điều đó sẽ được cô khen ngợi kịp thời.
      Ở giai đoạn Học vần: Tôi chuẩn bị một hệ thống phiếu đọc theo từng tuần. Phiếu đọc giúp các em ôn tập lại các âm, vần đã học. Không những vậy, phiếu đọc còn tổng hợp rất nhiều những từ có chứa các vần các em đã được học trong tuần. Phiếu đọc không chỉ giúp các em luyện đọc, nó còn giúp các em có vốn từ phong phú.
Ví dụ: Đây là phiếu đọc tuần 20:
Họ và tên:..
Lớp:...
 
PHIẾU ĐỌC TUẦN 20
 œ &  œ
Thứ hai: Bài 81: ach
phòng khách
sạch sẽ
-  Nhà sạch thì mát,
 Bát sạch ngon cơm.
- Đói cho sạch, rách cho thơm.
- Mẹ mời khách uống trà.                        
viên gạch
sách Tiếng Việt
gõ phách
bộ ấm tách
danh sách
vạch sơn
Thứ ba: Bài 82: ich, êch
lịch sự
bạc phếch
- Chim chích là con vật có ích. Nó bắt sâu cho cây cối xanh tốt.
- Hè này, bố mẹ cho bé đi du lịch đảo Tuần Châu.
- Chú ếch cốm ngồi trên lá sen.
cái phích
lếch thếch
xúc xích
chú ếch cốm
du lịch
nghịch ngợm
Thứ tư: Bài 83: ôn tập
Con luyện đọc lại toàn bộ phiếu đọc.
Thứ năm: Bài 84: op, ap
con cọp
sáp nẻ
- Khi muốn ngáp, các con phải lấy tay che miệng.
- Trong rừng xanh, con cọp được mệnh danh là chúa sơn lâm.
- Học Toán, các con nên có giấy nháp.
đóng góp
xe đạp
tóp mỡ
múa sạp
họp tổ
nước Pháp
Thứ sáu: Bài 85: ăp, õp
bắp ngô
ngập lụt
- Tàu đánh cá đang từ từ cập bến.
- Trẻ em ở khắp nơi đều thích múa hát.
- Trên sân ga, người đi lại tấp nập.
- Bé rất thích chơi bập bênh.
thẳng tắp
bập bênh
thắp đèn
vở tập viết

     Ở giai đoạn Tập đọc:
     Tiết Hướng dẫn học cuối tuần, tôi cho học sinh luyện đọc lại các bài Tập đọc trong tuần, hướng dẫn những em học sinh còn yếu tìm hiểu bài tốt hơn. Ngoài việc giảng dạy theo đúng chương trình thời khóa biểu môn Tập đọc, tôi thường xuyên có thêm các phiếu luyện đọc cho các em vào cuối tuần. Các phiếu này học sinh sẽ được thực hành vào tiết Hướng dẫn học cuối tuần.
Ví dụ: Tôi minh họa bằng một phiếu bài tập Tiếng Việt cuối tuần:
Họ và tên:
Lớp: 1A5
Luyện Tiếng Việt-  Tuần 25
Bài 1: Đọc bài:
                                         Mùa  xuân  đến
          Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. Bầu trời ngày thêm xanh. Nắng vàng ngày càng rực rỡ, vườn cây lại đâm chồi nảy lộc. Rồi vườn cây ra hoa. Hoa bưởi nồng nàn. Hoa nhãn ngọt. Hoa cau thoảng qua. Vườn cây lại đầy tiếng chim và bóng chim bay nhảy. Những chú chích choè nhanh nhảu. Những chú khướu lắm điều. Những anh chào mào đỏm dáng. Những bác cu gáy trầm ngâm.
   Bài 2:
     - Tìm trong bài những tiếng  có chứa  vần ươu:
     - Kể tên những loài chim được nhắc đến trong bài:
Viết câu với một trong các từ mà em tìm được:
 Bài 3: Điền l/n:
          cái ...ón                  ...ong  ...anh                quả ...a
          ...ồi  cơm               ...ấu  ướng                 ...a mắng
 Bài 4: Điền vần
at/ ac: gió  m;  ngan ng;     ngơ  ng;     công t
oc/ ot: bánh ng ; viên ng.;      gấm v;       v tăm
      Luyện tập - Thực hành, đặc biệt là trong giờ Tiếng việt, đã tạo cho lớp học một không khí thoải mái để các em phấn khởi học tập, cung cấp cho học sinh những kiến thức phong phú muôn màu muôn vẻ. Tôi đó thường xuyên sử dụng phương pháp gợi mở để phát huy tính chủ động, tích cực và sự sáng tạo ở mỗi học sinh, từ đó các em có điều kiện để thể hiện mình trong giờ luyện tập thực hành.
KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
     Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào việc rèn học sinh lớp 1 đọc tốt ở  4 lớp 1 trong 4  năm tôi là giáo viên chủ nhiệm, tôi đã có được kết quả cuối năm học (2015-2016, 2016-2017, 2017-2018) và giữa kì 2 (năm học 2018-2019) cụ thể như sau:
     Kết quả trước thực nghiệm:
 Năm học
Sĩ số HS
Đọc ngọng
Đọc sai p/âm
Đọc sai dấu
Đọc đúng
Đọc diễn cảm
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
2015-2016
50
 7
14
22
44
6
12
15
30
0
 0
2016-2017
50
 8
16
20
40
7
14
14
28
1
2
2017-2018
50
  6
12
17
34
9
18
16
32
2
4
2018-2019
54
  10
 18,5
15
 27,7
8
13
21
38,9
0
0
     Kết quả sau thực nghiệm:
 Năm học
Sĩ số HS
Đọc ngọng
Đọc sai p/âm
Đọc sai dấu
Đọc đúng
Đọc diễn cảm
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
2015-2016
50
 1
 2
  4
  8
  2
   4
  28
   56
  15
   30
2016-2017
50
 2
  4
   3
   6
  2
   4
  27
   54
  16
   32
2017-2018
50
 2
 4
 1
  2
 0
 0
32
64
15
 30
2018-2019
54
 4
  7,4
 3
  5,5
0
0
 20
 37,3
 27
 50
KẾT LUẬN  
       Dạy học Tiếng việt trong trường Tiểu học là hết sức quan trọng trong nền giáo dục của Việt Nam. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy phân môn Tập đọc ở trường Tiểu học không chỉ rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm bài văn, bài thơ hay đoạn văn, đoạn thơ trong sách giáo khoa mà dạy tốt, học tốt môn này lại có mục đích cao hơn là trau dồi Tiếng việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng hiểu biết của học sinh về cuộc sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tâm hồn cho học sinh.
     Muốn học sinh học tốt các môn Tiếng Việt thì trước tiên phải học tốt các tiếng, từ, ngắt nghỉ đúng các dấu hiệu ngữ pháp rồi sau đó là đọc hiểu. ở đây, với mục đích giảng dạy Tiếng Việt nói chung và môn Tiếng Việt ở lớp 1 nói riêng, tôi đã cố gắng dựa vào các cơ sở khoa học và nhiều nhất là cơ sở thực tế của học sinh sinh lớp Một để suy nghĩ ra các biện pháp nêu trên để rèn luyện cho các em.
     Các biện pháp nêu trên không chỉ rèn luyện cho học kiến thức, thói quen mà đã thực sự trở thành kỹ năng cho học sinh trong các giờ học Tiếng Việt lớp tôi. Ở các biện pháp trên, giáo viên là người định hướng,điều khiển quá trình dạy học, tổ chức để học sinh chủ động, sáng tạo tự tìm ra con đường chiếm lĩnh tri thức.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_giup_giao_vien_nang_cao_hieu_qua_khi_r.docx