SKKN Một số biện pháp dạy học giúp phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng Việt Lớp 1 theo chương trình GDPT 2018
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là phát triển năng lực hành động tức là khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, các vấn đề trong những tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động. Như vậy năng lực người học cần đạt là cơ sở để xác định các mục tiêu, nội dung, hoạt động, phương pháp …..dạy học mà người dạy cần phải căn cứ vào đó để tiến hành các hoạt động giảng dạy và giáo dục ( lấy người học làm trung tâm).
Năng lực đặc thù là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động. Đây cũng được xem như một năng khiếu, giúp các em mở rộng và phát huy bản thân mình nhiều hơn. Các năng lực đặc thù được rèn luyện và phát triển trong chương trình giáo dục phổ thông mới là: Ngôn ngữ, tính toán, khoa học, tin học, thể chất, thẩm mỹ, công nghệ.
Trong dạy học Tiếng Việt, năng lực hành động được hiểu là năng lực giải quyết một nhiệm vụ giao tiếp - năng lực giao tiếp. Năng lực giao tiếp vừa là năng lực đặc thù của môn Tiếng Việt vừa là một năng lực chung mà trường học phải hình thành và phát triển đặc biệt đối với học sinh lớp 1.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp dạy học giúp phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng Việt Lớp 1 theo chương trình GDPT 2018
i một số em giỏi đọc thật to, thật chính xác là một việc làm không thể thiếu bởi vì các em yếu sẽ bắt chước các bạn để đọc, và như vậy các em sẽ có ý thức tự sửa hơn. Sau đó cả lớp sẽ đồng thanh những từ ngữ này. Cần tăng cường cho các em nhận xét nhau đọc, đúng hay say, nếu sai thì ở đâu, các em có thể tự sửa lại cho bạn. Nếu học sinh không làm được việc đó, giáo viên phải kịp thời uốn nắn sửa sai ngay cho các em. Nhất thiết phải có khen chê kịp thời. - Không chỉ luyện đọc đúng từ trong giờ tập đọc mà trong các tiết Tiếng Việt linh hoạt tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vần để giúp các em phát âm tốt hơn. Ví dụ: Dạng bài tập điền vần hoặc điền phụ âm đầu, vần hay sai do phương ngữ của vùng miền + Bài tập 1: Điền l hay n? Quả .a , ....o lắng , trời ....ắng + Bài tập 2: Điền r, d, gi? ộn.ã , ..ập .ờn , tháng..iêng + Bài tập 3: Điền s, x? ản uất , anh.anh, o.ánh, ung phong , .ừngững + Bài tập 4: Điền vần anh hay ăn? ch.. len, c. đẹp , c nhà, m. khoẻ, bức tr. và còn nhiều bài tập khác dạng như trên. Sau khi học sinh điền xong, giáo viên phải yêu cầu và kiểm tra các em đọc. Nếu các em đọc sai giáo viên phải kịp thời uốn nắn ngay. Phần luyện đọc từ nếu giáo viên làm tốt, hướng dẫn học sinh đọc kỹ sẽ giúp cho các em hình thành và phát triển năng lực đọc trơn bài đọc tốt hơn. * Luyện đọc theo văn bản: + Đối với văn bản thơ Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể hiện được tình cảm của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm xúc đến người nghe. Khi đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái, tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ thì một công việc không thể thiếu được đối với giáo viên và học sinh đó là ngắt nhịp câu thơ. Thực tế cho thấy học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ. Học sinh tìm được trong bài có những dấu câu thì ngắt nhịp ra sao. Do vậy khi dạy những bài đọc thơ ở giai đoạn đầu tôi thường đưa lên màn hình các câu thơ cần chú ý ngắt giọng rồi hướng dẫn. Học sinh sẽ được luyện đọc từng câu rồi đọc nối tiếp nhau cho đến hết bài. Đến giai đoạn sau (khoảng từ giữa học kỳ II trở đi) tôi đã để học sinh nhìn vào sách và nêu cách ngắt giọng của mình ở từng câu thơ. Nếu học sinh nói đúng giáo viên công nhận ngay. Nếu học sinh nói sai giáo viên sửa lại cho học sinh. Bên cạnh việc rèn đọc đúng trong các giờ tập đọc ở trên lớp thì trong các tiết Tiếng Việt bổ sung tôi cũng thường đưa ra những câu thơ hoặc bài thơ ngắn để giúp học sinh luyện đọc và ngắt giọng, cũng có thể đó là những câu ứng dụng hay bài ứng dụng đã có ở phần học vần. + Đối với văn bản văn xuôi Tương tự như ở thơ, giáo viên cần chú trong rèn cho các em biết ngắt, nghỉ hơi cho đúng. Cần phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm hai, tức là không ngắt hơi trong một từ. Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Đối với những câu văn dài cần hướng dẫn học sinh ngắt hơi cho phù hợp. Có thể GV hướng dẫn cách ngắt hoặc yêu cầu học sinh xác định cách ngắt giọng, gọi học sinh nhận xét đúng sai. Đối với học sinh lớp 1 giáo viên cũng chưa nên hỏi nhiều quá về việc tại sao các em lại ngắt giọng như vậy mà nếu thấy đúng thì giáo viên công nhận ngay, còn nếu sai thì sửa cho các em và giải thích để các em thấy rõ hơn. Sau khi xác định ngắt giọng ở mỗi câu văn dài bao giờ giáo viên cũng phải nhấn mạnh cho các em thấy tầm quan trọng trong việc ngắt, nghỉ đúng ở các câu văn, đoạn văn. Muốn xác định cách ngắt giọng đúng thì phải dựa vào nghĩa vào các tiếng, từ, dấu câu. Cũng như thơ, sau khi sửa xong lỗi ngắt giọng cho học sinh, giáo viên phải gọi nhiều em đọc, các học sinh khác nghe và nhận xét bạn đọc.Việc luyện đọc cho học sinh đọc đúng từ, câu sẽ giúp cho việc đọc đoạn, bài được trôi chảy, lưu loát hơn và học sinh nắm chắc được cách đọc đúng văn bản được học mà không phải tình trạng học vẹt. Để tiết học nhẹ nhàng, không nhàm chán mà lại nhiều em được luyện đọc thì giáo viên phải tổ chức đọc theo nhiều hình thức khác nhau như đọc cá nhân, đọc theo nhóm, theo tổ hoặc đồng thanh. Những hình thức này còn giúp giáo viên kiểm soát được khả năng đọc của toàn thể học sinh trong lớp. + Luyện đọc củng cố và nâng cao Để giúp học sinh đọc bài một cách chắc chắn, giáo viên cần dành thời gian để luyện đọc củng cố và nâng cao. Trong phần này giáo viên cho học sinh luyện đọc cá nhân- giáo viên cần chú ý tới các em đọc yếu để em đó được tham gia đọc. Trong quá trình học sinh đọc giáo viên quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai cho các em, giáo viên cần động viên khích lệ kịp thời. Đối với những bài đọc có lời đối thoại nên cho các em đọc theo lối phân vai. Một tiết học tập đọc chỉ có 35- 40 phút, vì vậy để đảm bảo thời gian và chất lượng giờ học, học sinh phải đọc trước văn bản ở nhà. Trong giờ học, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức để học sinh tự tìm ra kiến thức. Giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo, phải đưa ra các tình huống có thể xảy ra khi hướng dẫn học sinh đọc cho đúng, cho hay. Muốn vậy giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức, luôn thay đổi phương pháp dạy học cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. 3.2. Chú trọng phát triển năng lực thẩm mĩ cho học sinh khi dạy Tập viết Khi dạy Tập viết tôi đã tiến hành theo các bước sau: - Bước 1: Xác định cấu tạo chữ viết. + Xác định toạ độ và chiều hướng chữ. Toạ độ chữ được xác định trên đường kẻ ngang của vở tập viết. Cách xác định toạ độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc, đường kẻ ngang và các ô vuông làm định hướng. Đây là trong những điều kiện để dạy chữ viết thành một quy trình. + Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt bút có thể nằm trên đường kẻ ngang, hoặc không nằm trên đường kẻ ngang. - Bước 2: Xác định kĩ thuật đưa bút: + Đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với nét chữ vừa viết. Ở đây xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) chạy nhẹ từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau. - Bước 3: Áp dụng một số phương pháp dạy tập viết: + Phương pháp trực quan + Phương pháp đàm thoại gợi mở + Phương pháp luyện tập: - Tập viết chữ ( Chữ cái, chữ số, từ ngữ, câu) trên bảng lớp. - Tập viết chữ vào bảng con của học sinh. - Luyện viết trong vở. - Bước 4: Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch đẹp. - Bước 5: Thực hiện ngồi đúng tư khi viết. 4. Giải pháp 4: Chú trọng phát triển phẩm chất cho học sinh: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. - Dạy học môn Tiếng Việt chú trọng phát triển phẩm chất yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực trách nhiệm được lồng ghép qua từng bài học trong các chủ điểm. Ví dụ: Khi dạy bài “Ngôi nhà” qua phần tìm hiểu bài giáo dục học sinh tình yêu quê hương đất nước qua tình cảm đối với những thứ thân thuộc gần gũi ở làng quê. Giáo viên có thể tích hợp môn Hát Nhạc, Mĩ Thuật bằng cách cho học sinh vẽ tranh hoặc hát bài bát thể hiện tình cảm của mình với quê hương đất nước. - Giáo dục lòng nhân ái cho học sinh qua một số hoạt động khác như: ủng hộ các bạn học sinh vùng sâu xa, học sinh vùng bão lũ, học sinh nghèo vượt khó - Từ những quan sát và những công việc bạn làm, công việc mình tự làm, giáo dục cho các em có ý thức tự giác tham gia các việc vừa sức giúp bố mẹ và những việc của trường, của lớp; chăm chỉ, sẵn sàng giúp đỡ các bạn gặp khó khăn. - Khi hướng dẫn học sinh học bài, làm bài, biết vận dụng đúng các nguyên tắc và phương pháp giáo dục và dạy học sẽ giúp học sinh đi từ mức độ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp và nâng cao dần, sẽ tập luyện cho học sinh thói quen vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ học tập, bước đầu hoàn thành các phẩm chất ý chí, các nét tính cách tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm của mình. - Trong quá trình học tập cùng nhau, các mối quan hệ về lợi ích giữa cá nhân với tập thể sẽ hình thành tinh thần đoàn kết gắn bó với nhau vì lợi ích chung cũng sẽ phát triển nâng cao dần. Giáo dục học sinh phải nói thât, nói đúng về sự viêc, không nói dối, nói sai về người khác. Trên cơ sở đó tạo cho các em có tính trung thực, kỉ luât và đoàn kết cao III.2. Tính mới, tính sáng tạo: Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống như: Bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh (HS); giờ học đổi mới PPDH còn có những yêu cầu mới như: được thực hiện thông qua việc GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo nguyên tắc tương tác nhiều chiều: giữa GV với HS, giữa HS với nhau (chú trọng cả hoạt động dạy của người dạy và hoạt động học của người học. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ học tập với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”. Phát triển được năng lực đặc thù cho học sinh trong môn Tiếng Việt giúp ngôn ngữ của học sinh được phát triển thông qua các hoạt động của giáo viên giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Đổi mới được phương pháp giảng dạy lấy học sinh là trung tâm của hoạt động giáo dục, định hướng cho học sinh cách tư duy, học sinh biết giải quyết các nhiệm vụ học tập, các vấn đề trong các tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động để chiếm lĩnh kiến thức. Phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được nhiệm vụ học tập. Tăng cường phối hợp học tập cá nhân với hoạt động học tập nhóm, lớp học trở thành môi trường giao tiếp giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh để giải quyết các nhiệm vụ học tập chung. Học sinh mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp khi đánh giá bạn, tự đánh giá, chia sẻ bài, khi học trên lớp và cả khi giao tiếp ở nhà và ngoài xã hội. Phụ huynh tham gia cùng giáo viên trong việc kèm học sinh dưới sự tư vấn của thầy cô, phụ huynh tham gia vào đánh giá nhận xét các em. III.3. Phạm vi ảnh hưởng, khả năng áp dụng của sáng kiến: Áp dụng và triển khai cho học sinh lớp một lớp 1 nói riêng và học sinh các khối lớp khác nói chung trong dạy Tiếng Việt chú trọng tới năng lực đặc thù của môn học để phát triển ngôn ngữ cho học sinh. Áp dụng sáng kiến vào dạy môn Tập đọc đã giúp xây dựng trường học hạnh phúc, lớp học hạnh phúc tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên, học sinh được giới thiệu về bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của giáo viên với học sinh, tạo dựng lớp học hạnh phúc, trường học hạnh phúc - Nơi "Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình".Đây cũng là một điều kiện theo tôi là rất quan trọng để phát huy năng lực rèn tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Bởi học sinh lớp còn nhút nhát thiếu tự tin không thể phát huy năng lực của mình trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Đặc biệt, đối với môn Tiếng Việt là một môn mà học sinh chủ yếu với hoạt động động bài dễ gây nhàm chán thì điều đó càng cần thực hiện triệt để hơn. Vì vậy trong mỗi tiết học của môn tập đọc lớp 1 học sinh được khởi động để kích thích học sinh học tập hơn. Trong mỗi tiết học, tôi thường xuyên động viên, khen thưởng các em. Cuối mỗi tiết học, tôi thường tổng kết và luôn đặt ra câu hỏi “ Em có cảm nhận gì về tiết học ngày hôm nay?”. Từ câu hỏi này học sinh có thể tự bộc lộ những cảm xúc của mình dành cho tiết học. Đồng thời, cũng giúp giáo viên có thể nhận thức được thực trạng của lớp. III.4 Hiệu quả, lợi ích thu được từ sáng kiến: Sau thời gian nghiên cứu, áp dụng các giải pháp trên, chất lượng môn Tiếng Việt có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều đã biết đọc, biết viết tương đối thành thạo các âm, các tiếng mới học. Vận dụng tìm các tiếng có âm mới học khá tốt. Kỹ năng đọc thành tiếng với các yêu cầu trọng tâm là đọc tròn vành rõ tiếng các âm tiếng Việt, đọc đúng tốc độ để có thể lĩnh hội được nội dung văn bản và biết ngắt nghỉ đúng chỗ. Năng lực viết của các em cũng đã có sự chuyển biến tích cực. Các em đều nắm được cấu tạo các chữ, viết đúng độ cao, độ rộng, khoảng cách các chữ và chữ viết chữ đẹp hơn. Biết sắp xếp ngôn ngữ nói thành câu hoàn chỉnh. TIẾNG VIỆT Lớp Sĩ số HTT HT CHT SL % SL % SL % 1A 33 31 94% 2 6% 0 0% 1C 32 30 94% 2 6% 0 0% Kết quả khảo sát cuối học kì 1: 100% các em đạt điểm 5-10 trong đó lớp 1A điểm 7-8: 4 em = 12%, điểm 9-10: 29 em= 88%. Lớp 1C điểm 7-8: 1 em =3%, điểm 9-10: 29 em=91% (lớp có 2 em HSKT).Từ kết quả trên tôi nhận thấy việc áp dụng giải pháp: Một số biện pháp dạy học giúp phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng Việt lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018 với lớp tôi chủ nhiệm thật sự là rất tối ưu và tôi mong muốn được chia sẻ giải pháp này tới học sinh toàn khối trong trường. Trên đây là một số biện pháp dạy học để phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng Việt lớp Một mà tôi đã áp dụng ở lớp mình phụ trách. Tôi rất mong được sự tham gia góp ý của các cấp lãnh đạo và tất cả các bạn đồng nghiệp để việc dạy học môn Tiếng Việt đạt hiệu quả cao. Xin trân trọng cảm ơn ! CƠ QUAN ĐƠN VỊ Thị trấn, ngày 06 tháng 01 năm 2024 ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Nhóm tác giả sáng kiến Trần Thị Thuỳ Linh - Phạm Thị Chinh IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu tham khảo Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 Bộ kết nối tri thức với cuộc sống – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 1 Bộ kết nối tri thức với cuộc sống – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 3. Tra cứu trên mạng Internet.... CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BẢN CAM KẾT I. Tác giả : Họ và tên: Trần Thị Thuỳ Linh Ngày/ tháng/ năm sinh: 23/ 12/1999 Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Thị Trấn Vĩnh Bảo. Điện thoại: 0772260239 Đồng tác giả: Họ và tên: Phạm Thị Chinh Ngày/ tháng/ năm sinh: 25/05/1977 Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Thị Trấn Vĩnh Bảo. Điện thoại: 0977964861 II. Nghiên cứu sáng kiến : Một số biện pháp dạy học giúp phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng Việt lớp 1. III. Cam kết : Chúng tôi xin cam kết sáng kiến này là sản phẩm của cá nhân tôi. Đó là một quá trình nghiên cứu, tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm từ trong thực tế đứng lớp giảng dạy mới có được. Tôi không hề sao chép bằng bất kỳ hình thức nào. Nếu không có tính trung thực về quyền sở hữu đối với một phần hay toàn bộ sản phẩm của sáng kiến tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị, Phòng giáo dục, Sở giáo dục./. Hải Phòng, ngày 6 tháng 1 năm 2024 Người cam kết Trần Thị Thuỳ Linh – Phạm Thị Chinh
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_day_hoc_giup_phat_trien_nang_luc_dac_t.docx

