SKKN Một số biện pháp dạy học giúp học sinh Lớp 2A trường Tiểu học Lý Thường Kiệt làm giàu vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu

Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1.Cơ sở lý luận
Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong trường Tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng để ngay từ cấp Tiểu học, mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện, đồng thời phát triển được khả năng của mình về một môn học, nhằm chuẩn bị ngay từ bậc Tiểu học những con người chủ động, sáng tạo đáp ứng được mục tiêu chung của cấp học và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông. Vì vậy phương pháp dạy học ở bậc tiểu học có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần hình thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, hình thành nếp tư duy sáng tạo ngay từ khi các em bắt đầu đến trường phổ thông.
Trong các môn học ở tiểu học môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức ban đầu còn là công cụ giúp cho học sinh học các môn khác. Đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu là phân môn đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển ngôn ngữ của học sinh nói chung và của học sinh lớp Hai nói riêng. Trong thực tế môn Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng là chìa khóa mở ra kho tàng văn hóa trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của con người.Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh lĩnh hội Tiếng việt, văn hóa là công cụ giúp học sinh sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả tốt mà còn học tốt các môn học khác, rèn cho học sinh bốn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết thành thạo.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh biết cách giao tiếp tốt, viết được đoạn văn ngắn thì phải làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh. Làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh lớp Hai là một việc làm quan trọng trong phân môn Luyện từ và câu.Việc phát triển và làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh góp phần giúp học sinh có kĩ năng dùng từ để đặt câu và giao tiếp tốt. Hơn nữa, phân môn Luyện từ và câu hoàn toàn mới đối với học sinh lớp 2. Vì các em từ lớp 1 lên, các em mới làm quen với thể loại này. Với đối tượng này vốn từ ít, kỹ năng nói và viết diễn đạt còn hạn chế. Học sinh chưa hiểu sâu về nghĩa các từ ngữ và bản chất của câu nên khi nói và viết một đoạn văn các em thường bộc lộ các yếu điểm về diễn đạt như : từ lặp lại nhiều, câu không rõ nghĩa, các câu trong đoạn văn còn lộn xộn, viết đoạn văn mang tính chất trả lời câu hỏi. Học sinh thường dập khuôn theo sự hướng dẫn của giáo viên.
2. Cơ sở thực tiễn
Bước vào đầu năm học, nhà trường phân công cho tôi chủ nhiệm lớp 2a. trong quá trình trực tiếp giảng dạy các em tôi cảm thấy hầu hết các em chưa biết nói thành câu. Các em giao tiếp với nhau lời lẽ cụt ngủn, đôi khi nói năng cộc lốc không lịch sự. Ngôn ngữ của các em rất hạn chế, vốn sống còn ít, vốn hiều biết về Tiếng Việt chưa nhiều, việc nói và viết thành câu, thành một đoạn văn gặp nhiều khó khăn.
Việc dạy từ ngữ cho học sinh chính là quá trình giáo viên khơi dậy sự hiểu biết và cảm nhận của các em về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều đó đòi hỏi giáo viên có phương pháp mở rộng vốn từ giúp các em tìm được nhiều từ ngữ và biết sử dụng từ ngữ một cách thích hợp, sử dụng từ chính xác và hay khi nói và viết. Song thực tế chỉ ra rằng một số học sinh lớp 2 vốn sống của các em còn hạn chế do đó khi diễn đạt nói và viết học sinh còn gặp nhiều khó khăn.

docx 15 trang Thu Nga 12/08/2025 230
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp dạy học giúp học sinh Lớp 2A trường Tiểu học Lý Thường Kiệt làm giàu vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp dạy học giúp học sinh Lớp 2A trường Tiểu học Lý Thường Kiệt làm giàu vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu

SKKN Một số biện pháp dạy học giúp học sinh Lớp 2A trường Tiểu học Lý Thường Kiệt làm giàu vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu
h học sinh đặt câu, nếu em nào dùng từ chưa đúng, giáo viên chỉnh sửa giúp các em hoàn thiện câu văn đúng và hay.
Khi sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp trong việc mở rộng vốn từ và rèn kĩ năng sử dụng từ đúng, tôi thấy các em rất hứng thú học tập, bởi các em được nói ra những điều mình khám phá, được cô giáo trau chuốt cho từng câu, từng lời, được cô khen  biết đặt những câu đúng và hay vì thế hiệu quả học tập của các em ngày càng cao.
5 .Sử dụng phương pháp trò chơi trong việc mở rộng vốn từ
Xuất phát từ đặc điểm tâm lí của học sinh nói riêng và người học nói chung nội dung học tập càng hấp dẫn thì người học càng có hứng thú cao và hiệu quả học tập do đó càng cao, việc học gắn với thực hành thì sẽ giúp cho người học nhớ lâu kiến thức và biết cách vận dụng kiến thức, kĩ năng vào một tình huống giải quyết vấn đề cụ thể, người học muốn thể hiện năng lực của mình.
5.1. Trò chơi ghép nhanh tên sự vật
Ví dụ: tranh bài tập 1 tuần 3 trang 26, bài tập 2 tuần 7, trang 59, bàitập 3 tuần 16 trang 134 trong SGK Tiếng Việt 2 tập 1.
Chuẩn bị 2 bộ đồ dùng để chơi: mỗi bộ gồm 1 số đồ vật thật hoặc tranh ảnh đại diện cho nghĩa của từ được nêu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2, các thẻ từ( bìa giấy) ghi tên các đồ vật (tranh ảnh)
ví dụ: tranh bài tập 1 tuần 3 trang 26, bài tập 2 tuần 7, trang 59, bàitập 3 tuần 16 trang 134 trong SGK Tiếng Việt 2 tập 1. một số mảnh bìa ghi từng từ ( tương ứng với từng đồ vật hoặc tranh ảnh)
-Gíaó viên hoặc một học sinh là trọng tài để đánh giá kết quả.
c.Cách chơi
-Chơi theo từng cặp 2 học sinh hoặc 2 nhóm học sinh ( mỗi nhóm từ 2 đến 4 người chơi-Các đồ vật hoặc tranh ảnh đã được sắp xếp hoặc treo thành 2 nhóm. Mỗi học sinh ( hoặc mỗi nhóm) tham gia trò chơi được phát một bộ thẻ từ ghi tên các đồ vật ( tranh ảnh). Học sinh ( hoặc nhóm) nào dán đúng và nhanh nhất các tên ( từ) vào đồ vật hoặc tranh thích hợp thì thắng cuộc.
5.2.Trò chơi tìm nhanh từ cùng chủ đề 
a.Mục tiêu
-Mở rộng vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh
-Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử nhanh
b. Chuẩn bị: bảng phụ hoặc giấy nháp
c. Cách tiến hành
Trò chơi có từ 2 đến 4 nhóm, mỗi nhóm có từ 2 đến 4 học sinh tham gia.
– Sau khi giải nghĩa từ ngữ được dùng để gọi tên chủ đề ( ví dụ: đồ dùng học tập là những dụng cụ của cá nhân dùng để học tập hoặc vật nuôi là những con vật nuôi trong nhà), giáo viên nêu yêu cầu:
+ Hãy kể ra những từ gọi tên đồ dùng học tập ( hoặc những từ nói về tình cảm gia đình..)
+ Từng nhóm ghi lại những từ đó vào bảng phụ hoặc ghi vào giấy nháp để đọc lên. Thời gian viết khoảng 2-3 phút.
5.3.Trò chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Trò chơi này giúp học sinh nhận biết nhanh các từ ngữ đồng nghĩa, làm giàu vốn từ ngữ của học sinh.  Trò chơi này được dùng khi dạy về chủ đề học tập tuần 2 sách Tiếng Việt 2 môn Luyện từ và câu tập 1.
a. Chuẩn bị
– Từ 2 đến 4 bộ quân bài có nội dung như nhau, nhưng khác màu để khỏi lẫn( xanh, đỏ, vàng), tương tự  quân bài trong cỗ tam cúc. Mỗi bộ có 10 hoặc 12 quân bài đã ghi sẵn các từ.
– 1 bộ quân bài dành cho người cầm cái ( trọng tài) khác màu với mỗi bộ quân bài của người chơi. Trên mỗi quân bài này có ghi từng từ đồng nghĩa với từ được ghi trên quân bài của người chơi
– Mỗi quân bài đều được ghi ở cả hai đầu để người chơi dễ nhìn khi cầm bài trên tay
b.. Cách tiến hành
Để thực hiện trò chơi cần thực hiện qua 4 bước sau:
Bước 1: Giới thiệu tên và mục đích của trò chơi: mục đích của trò chơi là học sinh thi tìm từ đồng nghĩa
Bước 2: chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm 2-4 học sinh. Quản trò là giáo viên và hai học sinh giúp giáo viên làm trọng tài.
-Giáo viên hướng dẫn học sinh chơi:
-Từ 2 đến 4 người chơi. Mỗi người có 1 bộ quân bài như nhau ( 10, 12 quân)
– Trọng tài lật 1 quân bài của mình ( có từ đồng nghĩa với từ trong bộ bài của người chơi). Những người chơi phải chọn thật nhanh quân bài của mình có từ đồng nghĩa với quân bài của trọng tài để đánh ra.
-Trọng tài công nhận quân bài đánh ra là từ đồng nghĩa thì người đánh quân bài đó đã “ăn” , nếu sai thì người đánh quân bài đúng tiếp theo sẽ được ” ăn “. Trường hợp 2-3 người cũng ra quân bài đúng thì cũng được ‘ăn”.
– Đánh hết bộ quân bài, ai có số lượng quân bài được “ăn” nhiều nhất sẽ thắng cuộc. như vậy, người thắng cuộc nhận ra nhanh, đúng từ đồng nghĩa.
Bước 3: Học sinh thực hiện trò chơi
 Bước 4: giáo viên thay mặt cho tổ trọng tài công bố nhóm tìm được nhiều từ đúng và chính xác nhất và tuyên dương  thưởng cho nhóm tìm được nhiều từ đúng và nhanh.
Các cặp từ đồng nghĩa nói về chủ đề học tập dùng làm bộ bài để chơi và bộ bài để cầm cái: học tập- học hành, siêng năng – chăm chỉ, vui vẻ – phấn khởi, giảng dạy- dạy dỗ, bài tập- bài vở, chăm chú- chú ý, lễ phép- lễ độ, thông minh- sáng dạ, vâng lời- nghe lời, kiên nhẫn – kiên trì.
5.4. Trò chơi tìm nhanh từ trái nghĩa
Giúp học sinh nhận biết nhanh từ trái nghĩa, làm giàu vốn từ của học sinh luyện trí thông minh, nhanh mắt nhanh tay
Cách chuẩn bị và cách chơi giống như cách chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Áp dụng trò chơi này khi dạy bài 1 tuần 16 luyện từ và câu lớp 2 tập 1
Các cặp từ trái nghĩa chỉ hoạt động, tính chất dùng làm bộ bài để chơi: tốt- xấu, ngoan -hư, nhanh – chậm, trắng – đen, cao –  thấp, khỏe – yếu, đẹp – xấu, ngắn – dài
5.5 Trò chơi thi đoán từ  – Trò chơi này giúp cho học sinh có kĩ năng đoán nhanh một từ khi biết nghĩa hoặc một số dấu hiệu hình thức của từ đó. Củng cố về nghĩa từ  và mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh.
Để thực hiện trò chơi này cần chuẩn bị:
– Một số câu đố về từ. Mỗi phiếu ghi một câu đố theo thứ tự 1,2,3làm các bộ phiếu giống nhau đủ cho số nhóm chơi, phiếu khổ to ghi sẵn kết quả các từ ( ghi theo số thứ tự trong phiếu câu đố), giấy, bút để ghi kết quả
– Giáo viên cùng 2,3 học sinh làm trọng tài, ghi điểm các nhóm tham gia chơi.
Cách tiển hành: Giáo viên lập 4 nhóm chơi ( mỗi nhóm 4,5 học sinh), nêu yêu cầu:
Sau khi nhận 2 bộ phiếu ghi các câu đố về từ, các nhóm thảo luận với nhau để giải câu đố, tìm từ và ghi kết quả vào tờ giấycủa nhóm.( nhớ ghi đúng từ  theo số thứ tự trên phiếu.
– Hết 3 phút, các nhóm dừng lại, lần lượt đọc kết quả để tổ trọng tài đánh giá
( mỗi từ tìm đúng được tính  2 điểm)
Ví dụ: dạy chủ đề trường học tôi có thể đưa ra các câu đố cho học sinh giải như sau:
-Viên màu trắng dùng để viết lên bảng.    (là gì?)
– Nơi em đến học hàng ngày.    (là gì?)
-Tờ gì mỏng dùng để viết chữ lên.   (là gì?)
– Cột gì cao trước sân trường
Chỉ mang một lá huy hoàng tung bay
Đầu tuần buổi sáng thứ hai
Cả trường, cả lớp ai ai cũng chào?        ( là gi?)
Thông qua trò chơi học tập, học sinh được phát triển cả về trí tuệ, thể lực, nhân cách giúp học sinh phát triển về ngôn ngữ, mở rộng được nhiều vốn từ, rèn cho học sinh tính nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử nhanh, làm giảm tính chất căng thẳng của giờ học. Tạo hứng thú học tập cho học sinh.
 IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM
Đầu  tháng tư vừa qua, tôi ra một bài tập yêu cầu học sinh làm bài để tôi xem mức độ học sinh biết dùng từ để  đặt câu như thế nào:
1.    tìm từ?
+Tìm 5 từ ca ngợi Bác Hồ:  mẫu: tài ba
+ Tìm 5 từ có tiếng thợ:   mẫu: thợ mỏ
2.    Đặt 1 câu với từ vừa tìm được ở câu 1
Sau khi học sinh làm bài xong, tôi kiểm tra bài tập của các em, tôi thấy các em có vốn từ rất tốt, đa số các em đã biết tìm từ đủ và đúng theo yêu cầu,  chỉ còn một số em chưa tìm đủ số từ mà cô giáo yêu cầu. Tôi cho học sinh đặt 1 câu với một trong các từ tìm được thì học sinh đa số học sinh biết dùng từ để đặt câu đúng, có em biết đặt câu hay nữa,
Kết quả đạt được như sau:
Giai đoạn
Đầu th  tháng
4
TÌM TỪ
ĐẶT CÂU
TỪ CA NGỢI BÁC HỒ
TÌM TỪ  CÓ TIẾNG THỢ
CÂU ĐÚNG
CÂU SAI NGỮ PHÁP
TÌM ĐỦ,
ĐÚNG( 5 TỪ)
CHƯA ĐẠT
YC
TÌM ĐỦ,
ĐÚNG( 5 TỪ)
CHƯA ĐẠT
YC
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp 2a:
ss:30
27
90
3
10
28
93,3
2
6,7
28
93,3
2
6,7
Nhìn  vào  bảng kết quả trên, cho thấy cách tổ chức học sinh học tập theo hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh có vốn từ phong phú. Khi học sinh có vốn từ phong phú thì học sinh  biết dùng từ đề đặt câu chắc chắn, thành thạo, chất lượng nói viết thành câu của học sinh tăng lên rõ rệt qua từng tháng. 
Mặt khác, qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp tôi thấy giờ học diễn ra sôi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói hơn cả là hiện tượng nói câu không rõ nghĩa, không trọn ý không còn nữa. Học sinh đã biết dùng các từ ngữ giàu hình ảnh, câu viết khá sinh động, khi viết về các sự vật  xung quanh mình.
Điều đó chứng tỏ sử dụng các biện pháp  theo hướng đã trình bày ở trên đã đem lại kết quả rất khả quan, cần được phát triển để thực sự nâng cao chất lượng làm giàu vốn ngôn ngữ nói riêng và học tốt môn Tiếng Việt nói chung cho học sinh lớp 2.
Sau một thời gian học tập và rèn luyện, chất lượng học tập của học sinh lớp tôi dạy đã được nâng cao rõ rệt. Học sinh bước đầu biết đặt câu đúng và câu hay biết áp dụng để viết đoạn văn ngắn phù hợp theo yêu cầu của đề bài.
Tôi tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu. Tôi thấy mỗi giờ dạy bản thân mình rất say mê, hứng thú trong việc rèn cho các em học tập. Cho nên tiết Luyện từ và câu bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn so với trước.
Tôi đã mạnh dạn thực hiện kinh nghiệm của mình trong các giờ Luyện từ và câu. Đầu năm học , khi mới bước vào học phân môn Luyện từ có và câu không ít học sinh lớp tôi rất sợ học phân môn này. Nhưng dần dần với sự động viên, dìu dắt của tôi, số lượng các em sợ học môn này ngày càng giảm dần. thay vào đó học sinh rất mong muốn, phấn khởi chờ đón giờ Luyện từ và câu. Học sinh lớp tôi đã ý thức hơn trong các giờ học tập Luyện từ và câu, học sinh tự tin và hứng thú học tập. Chất lượng học tập của học sinh có chuyển biến rõ rệt. học sinh được bộc lộ kinh nghiệm, sự cảm nhận của cá nhân khi quan sát, học sinh đựơc tự do diễn đạt bằng sự lựa chon từ ngữ, mô hình câu của riêng mình. Giờ học hứng thú hơn bởi học sinh có động cơ nói ra, viết ra điều mình thấy, mình cảm nhận được.  Đó chính là những động lực thúc đẩy tôi ngày càng nỗ lực phấn đấu hơn nữa trong sự nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này
C.PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I.Kết luận
Đứng trước vai trò,vị trí, tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu cho HS Tiểu học nói chung và đối với học sinh lớp hai nói riêng, tôi thấy việc hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Luyện từ và câu là hết sức cần thiết . Học Tiếng Việt không chỉ là học những tri thức về ngôn ngữ ,về lý luận  mà quan trọng hơn là bồi dưỡng và phát triển 4 kĩ năng nghe, đọc, nói, viết của học sinh.. Một trong những mục đích quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho HS trong nhà trường là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng Việt , một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta. Hơn nữa, việc dạy học Tiếng Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho học sinh một số những khái niệm hay quy tắc ngôn ngữ mà mục đích cuối cùng cần đạt đến lại là việc giúp các em có được những kĩ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ. Học sinh không chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngữ pháp Tiếng Việt, biết một khối lượng lớn các từ ngữ tiếng việt, mà lại không có khả năng sử dụng hiểu biết ấy vào trong giao tiếp .Dạy Tiếng Việt cho các em, đặc biệt các lớp đầu bậc tiểu học, không phải chủ yếu là dạy “ Kĩ thuật “ ngôn ngữ mà dạy “ kĩ thuật” giao tiếp.Vậy dạy Tiếng gắn liền với hoạt động giao tiếp là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất giúp HS nắm vững các quy tắc sử dụng ấy.Vì thế, có thể dạy Tiếng chính là việc dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ. Mỗi một câu học sinh biết sử dụng từ ngữ thành thạo là một dịp để các em có thêm kiến thức và kĩ năng chủ động tham dự vào cuộc sống văn hóa thường ngày.Vì vậy, giáo viên cần hết sức linh hoạt trong việc giảng dạy truyền kiến thức cho các em, để các em lĩnh hội kiến thức một cách sáng tạo, thoải mái mà không bị nhồi nhét, áp đặt. Để làm được điều này giáo viên phải linh hoạt trong mọi tiết dạy mà lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức lớp học sao cho đảm bảo tính vừa sức của học sinh tạo tiết học hứng thú và bổ ích.
– Khi áp dụng các biện  pháp trên vào dạy mở rộng vốn từ trong phân môn Luyện từ và câu, tôi nhận thấy các em không sợ học phân môn Luyện từ và câu nữa vì bản thân các em đã được đóng vai trò chủ đạo trong tiết học.Tôi nghĩ rằng với biện pháp trên,không chỉ áp dụng ở lớp 2 mà các khối khác đều áp dụng được .Nếu người giáo viên biết vận dụng các biện  pháp trên để tiến hành dạy trong giờ học, tôi nghĩ chất lượng giáo dục , hiệu quả  quả giáo dục của môn Tiếng Việt cụ thể là phân môn Luyện từ và câu  ngày càng tăng cao một cách rõ rệt. Các biện  pháp đó tôi đã thực hiện trong giảng dạy, tôi thấy học sinh tiến bộ  hẳn trong  năm học. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm.
Qua nghiên cứu thực trạng dạy học mở rộng vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2, tôi thấy việc rèn kĩ năng mở rộng vốn từ là vô cùng quan trọng. công việc này đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo song cũng cần kiên trì, chịu khó trong suốt quá trình giảng dạy Luyện từ và câu nói chung và dạy học sinh các môn học khác nói riêng. Việc dạy học sinh  theo hướng nêu trên đã đem tới sự tiến bộ vượt bậc không chỉ riêng ở môn Luyện từ và câu mà trong giờ  tập làm văn hay giờ kể chuyện thì ngôn ngữ của các em cũng sát thực và giàu hình ảnh hơn.
Trên đây là kinh nghiệm của tôi nhằm làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh trong phân môn Luyện từ và câu nói riêng và chất lượng học Tiếng Việt ở tiểu học nói chung.
Tôi sẽ tiếp tục áp dụng kinh nghiệm này để nâng cao khả năng học tốt phân môn Luyện từ và câu của học sinh.
Song tôi rất mong muốn các bạn đồng nghiệp tìm tòi, sáng tạo ra những sáng kiến kinh nghiệm quý báu để góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy.
 II.Đề xuất và kiến nghị
a.Đề nghị Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục
Trang bị thêm tranh ảnh, mẫu vật băng hình có nội dung theo các bài học để giờ dạy đạt kết quả cao hơn.
b. Đối với gia đình
Tôi muốn đề xuất với gia đình học sinh-mỗi phụ huynh phải là tấm gương sáng cho con mình học tập. Gia đình phải sống chuẩn mực, hòa thuận trên kính dưới nhường, con cái lễ phép với cha mẹ, giao tiếp với mọi người phải tuân thủ đúng quy cách lịch sự, nhã nhặn. Phụ huynh cần quan tâm đến con cái nhiều hơn nữa, nhắc nhở con chăm chỉ học bài. Mua sắm đầy đủ thiết bị, đồ dùng cho các em. Đặc biệt phải thường xuyên liên lạc với nhà trường để cùng nhau giáo dục con em mình ngày một hoàn thiện hơn về đạo đức, học tập đạt kết quả tốt hơn.
c..Đề xuất với ban giám hiệu
Trong các kì thi giáo viên dạy giỏi nên khuyến khích giáo viên dạy Luyện từ và câu để trao đổi tìm ra phương pháp hay.
-Nâng cao hiệu quả các giờ chuyên môn, khuyến khích giáo viên viết và báo cáo chuyên đề  trao đổi kinh nghiệm về phương pháp dạy học, Rất mong Ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_day_hoc_giup_hoc_sinh_lop_2a_truong_ti.docx