SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên giảng dạy môn Tập đọc cho học sinh Lớp 4, 5 theo định hướng phát triển năng lực

Đối với học sinh: Trong quá trình chỉ đạo chuyên môn và dự giờ với phân môn Tập đọc, tôi nhận thấy đa số các em đọc được văn bản và trả lời được một số câu hỏi của bài nhưng chưa thể hiện được rõ sự phát triển năng lực cho bản thân ở các hoạt động đọc tiếng; đọc hiểu; cảm thụ bài... .

Đối với giáo viên: Thời gian dành cho việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực không nhiều. Trong những tiết học này, giáo viên chỉ đảm bảo kiến thức cơ bản đã gần như hết thời gian nên việc rèn luyện để phát triển năng lực cho các em chưa đạt được nhiều. Bản thân giáo viên dạy học vấn đề này cũng chưa thật sự đào sâu suy nghĩ kĩ vấn đề đưa ra.

Kiến thức bồi dưỡng nâng cao cảm thụ thơ văn dành cho giáo viên chưa có hệ thống.

doc 23 trang Thu Nga 20/08/2025 480
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên giảng dạy môn Tập đọc cho học sinh Lớp 4, 5 theo định hướng phát triển năng lực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên giảng dạy môn Tập đọc cho học sinh Lớp 4, 5 theo định hướng phát triển năng lực

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên giảng dạy môn Tập đọc cho học sinh Lớp 4, 5 theo định hướng phát triển năng lực
ọc và phân biệt: nước, nấu (phụ âm đầu là n) không đọc là lước, lấu).
 Giáo viên cần hướng dẫn các em chú ý khi đọc đến tiếng nào có âm “n” hay “l” thì phải nghĩ kĩ từ đó để phát âm cho đúng. Đối với tiếng có phụ âm là “l” thì đọc uốn lưỡi, hơi bật ra ngoài miệng. Đối với tiếng có phụ âm “n” thì không đọc uốn lưỡi, hơi tắc trong cổ họng.
* Ngắt nghỉ hơi đúng: Đối với học sinh lớp 4 - 5, các em đã biết ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm. Khi đọc một văn bản, ngoài việc ngắt giọng dựa vào các dấu câu, học sinh cần nắm được các quan hệ ngữ pháp để đọc đúng chỗ ngắt giọng. Thực tế cho thấy khi đọc những bài văn xuôi, học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở những câu dài. Vậy khi dạy cho học sinh luyện đọc phải giúp cho các em dần dần biết dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng để ngắt cho đúng. Chẳng hạn có thể ngắt theo cụm từ, ngắt giọng giữa chủ ngữ và vị ngữ... Ngoài việc ngắt nghỉ hơi phải phù hợp với dấu câu, ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm. Ngắt giọng còn tuỳ theo cảm xúc của bài nhưng không được sai ý của câu. 
Ví dụ: Với bài: “Kì diệu rừng xanh” (Tiếng Việt 5) giáo viên hướng dẫn học sinh biết cách ngắt, nghỉ theo quan hệ giữa chủ ngữ và vị ngữ như sau:
 Câu dài: “Những con vượn bạc má ôm con gọn ghẽ /chuyền nhanh như tia chớp.” 
 *Cách đọc vắt các dòng thơ: Đọc vắt nghĩa là phải đọc liền hai hay nhiều câu thơ có liên quan với nhau. Ở lớp 5, với bài thơ: “ Hạt gạo làng ta” thì đọc vắt như sau: Hạt gạo làng ta
	Có bão tháng bảy
	Có mưa tháng ba
	Giọt mồ hôi sa
	Những trưa tháng sáu
	Nước như ai nấu
	Chết cả cá cờ
	Cua ngoi lên bờ
	Mẹ em xuống cấy ...
Hướng dẫn: Đọc vắt dòng 2 sang dòng 3, đọc vắt dòng 6 sang dòng 7.
- Ngoài việc ngắt hơi, cần chú ý giúp cho các em đọc đúng ngữ điệu câu: Lên cao giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu cảm. Với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ nội dung cầu khiến khác nhau.
Ví dụ : Ở lớp 4 khi đọc câu: “ Trăng ơi... từ đâu đến? ”thì đọc cao giọng ở tiếng đến, kéo dài giọng ở tiếng ơi.
Bài : Tập đọc Ga- vrốt ngoài chiến lũy lớp 4 có đoạn :
Cuốc- phây-rắc thét lên:
- Vào ngay!
- Tí ti thôi! Ga- vrốt nói.
Với câu cầu khiến:“ Vào ngay!’’Cần đọc cao giọng cho phù hợp với lời thét của Cuốc- phây-rắc...
* Rèn đọc nhanh: Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát trôi chảy. Khi đọc cho người khác nghe, người đọc phải để cho người khác nghe kịp hiểu được. Vì vậy đọc nhanh không có nghĩa là đọc liến thoắng. Chính vì thế, tôi đã hướng dẫn giáo viên dạy cho học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để các em đọc theo với tốc độ đã định. Đơn vị để học sinh luyện đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn. Ngoài ra còn có biện pháp đọc nối tiếp trên lớp nhưng có sự kiểm tra để điều chỉnh tốc độ. Thơ cần đọc chậm hơn các văn bản, văn xuôi. 
Ở lớp 5, trong bài “Hạt gạo làng ta”, khổ thơ thứ 4 cần đọc nhanh hơn so với các khổ thơ khác để thấy sự lao động khẩn trương, chăm chỉ của các bạn nhỏ. Với khổ thơ này nên đọc mẫu cho học sinh nghe, yêu cầu các em đọc lại. Sau đó giáo viên cùng học sinh nhận xét bạn đọc để điều chỉnh tốc độ đọc cho phù hợp:
	“Hạt gạo làng ta
	Có công các bạn
	...
	Quang trành quết đất”.
* Đọc diễn cảm: Đọc diễn cảm là một yêu cầu đọc thành tiếng. Đó là khả năng làm chủ ngữ điệu, làm chủ các thông số âm thanh như tốc độ đọc, ngắt, nghỉ, ngưng giọng, cường độ, cao độ của giọng để biểu đạt ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao và chỉ thực hiện trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát. 
Ví dụ: Với bài “Tre Việt Nam” (Tiếng Việt 4), học sinh đã được đọc và tìm hiểu toàn bộ nội dung bài tập đọc, giáo viên cho các em xác định giọng đọc chung của toàn bài để các em nắm bắt được và đọc hay hơn.
Từ đó học sinh xác định được giọng đọc chung của toàn bài “Tre Việt Nam” đó là: đọc giọng nhẹ nhàng, tình cảm, tha thiết...
* Rèn đọc hiểu: Đọc thầm: Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức đọc hiểu. Đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở chỗ nhanh hơn đọc thành tiếng từ 1 lần rưỡi đến 2 lần. Đối với mỗi đoạn, bài, giáo viên cho học sinh đọc thầm, sau đó kiểm tra kết quả đọc thầm bằng cách yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi giáo viên đưa ra.
Ví dụ: Với bài “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu”, cần yêu cầu học sinh đọc thầm toàn bài và trả lời câu hỏi sau: Bài chia làm mấy đoạn? Đó là những đoạn nào? Ở đoạn 2 chú ý xem Dế Mèn nói gì để bọn nhện nhận ra lẽ phải? 
Giáo viên đặt câu hỏi định hướng như trên để học sinh chú ý tập trung đọc thầm, lúc này giáo viên không yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi đó sau khi các em đã đọc thầm xong. Dạy đọc thầm là một hình thức để giúp học sinh hiểu bài đọc. Bên cạnh đó để dạy đọc hiểu, giáo viên cần tổ chức cho các em hoạt động bằng cách nhìn, nghĩ, nghe, làm và nói. Cụ thể là: Tổ chức cho học sinh suy nghĩ dưới các hình thức như tập trung ghi nhớ từng phần nội dung của bài; Tìm câu trả lời đúng.
Tổ chức cho học sinh nghe dưới các hình thức: Nghe giáo viên hoặc học sinh đọc mẫu kết hợp với nhìn và đọc nhẩm; Nghe câu hỏi, lời giao nhiệm vụ và lời chỉ dẫn của giáo viên.
Tổ chức cho học sinh làm dưới các hình thức: Cá nhân đọc thầm, cả lớp đọc thầm; Nhóm làm theo các chỉ dẫn trong bài.
Ví dụ: Khi dạy đoạn 5 của bài “Hạt gạo làng ta”, cần yêu cầu học sinh đọc thầm và thảo luận trong nhóm câu hỏi: Vì sao tác giả gọi hạt gạo là hạt vàng?
- Tổ chức cho các em nói dưới các hình thức: Trong nhóm đặt và trả lời câu hỏi về nội dung bài đọc; Nhắc lại được nội dung bài đọc; Phát biểu ý kiến của cá nhân hoặc của nhóm khi thảo luận về nội dung bài đọc. Vấn đề này giáo viên cần phải làm thường xuyên trong giờ Tập đọc để phát triển năng lực cho các em.
Đọc thành tiếng và hướng dẫn tìm hiểu bài: Đọc thành tiếng là một hình thức không thể thiếu của giờ Tập đọc. Việc đọc thành tiếng và tìm hiểu bài có thể chia ra làm 2 bước:
Bước 1: Giáo viên hướng dẫn và giao việc cho HS đọc đoạn bài theo hình thức đọc thành tiếng. Ở bước này giáo viên sửa lỗi phát âm sai, hướng dẫn học sinh phát hiện các từ quan trọng, những từ mới cần giải nghĩa...
Bước 2: Tiếp tục luyện đọc với yêu cầu cao hơn, chủ yếu là luyện đọc đoạn, bài và hướng đến mục đích đọc hay và diễn cảm. Ở bước này, tùy từng bài cụ thể mà chọn cách đọc củng cố hay đọc nâng cao.
Ví dụ: Với bài “Hạt gạo làng ta” (Tiếng Việt 5), cần chọn đoạn 2 để luyện đọc diễn cảm cho các em theo hướng đọc nâng cao. Yêu cầu cá nhân học sinh đọc lại đoạn đó, cả lớp luyện đọc theo đúng yêu cầu như: ngắt, nghỉ, xuống giọng, đọc vắt dòng, giọng đọc của đoạn... sao cho phù hợp.
Ví dụ: Hạt gạo làng ta /...Mẹ em xuống cấy...//
Trên đây là những cơ sở của các biện pháp rèn đọc lớp 4-5, giáo viên cần nắm chắc để khi dạy học dựa vào đó phát triển năng lực cho học sinh.
3.4. Biện pháp 4: Dạy Tập đọc chú ý coi trọng phát triển tư duy cho học sinh
a. Mục đích của biện pháp: Dạy học Tập đọc, cũng như toán học đặc biệt chú ý coi trọng phát triển tư duy để giúp cho các em được phát triển toàn diện hơn về ngôn ngữ Tiếng Việt.
 b. Biện pháp thực hiện: Trong dạy học Tập đọc việc phát triển tư duy cho học sinh là cực kì quan trọng. Bởi lẽ, nhờ có tư duy mà học sinh mới có khả năng tìm tòi, phát hiện, tự làm giàu vốn kiến thức của mình, tự vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, làm chủ được bản thân, từ đó các em sẽ phát triển được các năng lực. Do đó giáo viên không đưa ra các dạng bài mẫu để học sinh làm theo mà đòi hỏi giáo viên cho các em giải quyết các vấn đề trên cơ sở sử dụng những thao tác tư duy, phân tích, tổng hợp,...
Ở nội dung này diễn ra chủ yếu ở phần tìm hiểu bài, giáo viên cho các em tự tìm hiểu trong nhóm hoặc cá nhân các câu hỏi mức 3;4 có liên quan đến tìm hiểu các biện pháp nghệ thuật trong câu hay đoạn văn của bài học. Giáo viên thường đặt ra các câu hỏi sau đó yêu cầu học sinh phải tư duy, suy nghĩ để tìm ra câu trả lời đúng và diễn đạt sao cho hay nhất. Chính vì vậy, thầy cô phải chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi và câu trả lời cho bài dạy của mình. 
Ví dụ: Bài thơ: “Trăng ơitừ đâu đến?” (TV 4) giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh: Trong hai khổ thơ đầu trăng được so sánh với những gì? Biện pháp so sánh đó có tác dụng gì? 
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đoạn thơ và trả lời hai câu hỏi đưa ra. Câu 1 học sinh dễ dàng tìm được hình ảnh trăng so sánh với trái hồng chín, trăng tròn so sánh với mắt cá. Câu 2 để học sinh cảm nhận và trả lời được giáo viên có thể gợi ý thêm bằng các câu hỏi như:
	Tại sao tác giả lại so sánh trăng với trái hồng chín, với mắt cá? Học sinh: Vì trái hồng chín và mắt cá đều có hình dạng giống với hình dạng của trăng. Vì trái hồng chín và mắt cá là những sự vật rất gần gũi và quen thuộc tồn tại xung quanh ta. Từ đó học sinh nêu được tác dụng của cách so sánh trên khiến trăng trở nên gần gũi, cụ thể và quen thuộc hơn bao giờ hết với các bạn nhỏ. Từ đó làm cho ta càng thêm yêu thiên nhiên, cảnh vật có ở xung quanh mình.
	Bài: “Bầm ơi” (Tiếng Việt 5), yêu cầu học sinh đọc thầm đoạn thơ và trả lời câu hỏi: Bầm ra ruộng cấy bầm run
 Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
 Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu. 
	Hãy nhận xét ở đoạn thơ trên tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? 
Cách so sánh như vậy giúp em cảm nhận được điều gì về tình cảm của anh chiến sĩ đối với mẹ ở quê nhà?
	Giáo viên giúp học sinh xác định được: Biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ trên là nghệ thuật so sánh.
Hình ảnh so sánh: Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu. Từ ngữ để so sánh là bao nhiêu - bấy nhiêu. Tình cảm của anh chiến sĩ thương mẹ rất lớn lao thể hiện qua cách so sánh rất tài tình của tác giả: “Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu”. Hình ảnh so sánh hiện lên cụ thể qua hình ảnh hạt mưa rơi. Đúng như vậy có ai mà đếm được bao nhiêu hạt mưa rơi trong một cơn mưa. Bao nhiêu hạt mưa là bấy nhiêu tình cảm của anh chiến sĩ dành cho mẹ của mình. Qua đó ta thấy được tình thương lớn lao vô bờ bến của anh chiến sĩ với người mẹ ở quê nhà. 
 Kết luận chương 3: Xuất phát từ thực trạng dạy học Tập đọc lớp 4-5, từ những yêu cầu của thực tiễn, một số biện pháp chỉ đạo giáo viên giảng dạy môn Tập đọc cho học sinh lớp 4-5 theo định hướng phát triển năng lực. Các biện pháp trên đã được áp dụng tại trường và đem lại hiệu quả rõ rệt. Nhà trường đã có giáo viên đạt giải cao cấp Huyện và Thành phố. Trình độ chuyên môn, kĩ năng sư phạm của giáo viên được nâng lên. Trong khi chỉ đạo giáo viên giảng dạy môn Tập đọc theo định hướng phát triển năng lực cần lưu ý:
Trang bị đầy đủ kiến thức về luyện từ và câu cho học sinh (đặc biệt là kiến thức về ngữ pháp như: từ vựng và các kiến thức về các biện pháp tu từ)
Trong giảng dạy phân môn tập đọc, giáo viên cần thực hiện tốt việc luyện đọc diễn cảm và cảm thụ văn học cho học sinh. Giúp học sinh phát hiện ra các biện pháp nghệ thuật được tác giả được sử dụng trong tác phẩm và các ngữ liệu thể hiện biện pháp nghệ thuật ấy. Đồng thời cũng giúp các em phát triển được năng lực đọc diễn cảm và năng lực cảm thụ văn học.
 C. KẾT QUẢ
 Áp dụng một số biện pháp nêu trên vào quá trình chỉ đạo, nhà trường đã thu được rất nhiều kết quả đáng mừng. Chất lượng dạy học của nhà trường ngày càng đi lên; Trình độ của giáo viên ngày càng được củng cố và nâng cao. Nhà trường được đánh giá thực hiện tốt công tác dạy và học - nhất là việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực. So với số liệu thống kê đầu năm học, phân môn Tập đọc của lớp 4-5 đến nay đã đạt được kết quả cao thể hiện qua bảng thống kê sau:
Số HS
Đầu năm đọc và biết cảm thụ 
Giữa HKII đọc và cảm thụ tốt
Đọc và chưa biết cảm thụ
SL
%
SL
%
SL
%
Khối 4: 421
72
17
287
68
62
15
Khối 5: 369
93
25
208
57
68
18
Tổng: 790
165
21
495
62.6
130
16.4
 So sánh với bảng thống kê đầu năm, học sinh đọc và cảm thụ tốt ở cả hai khối tăng 330 em. Học sinh đọc và chưa biết cảm thụ giảm 271 em. Đây là một kết quả đáng mừng trong việc đổi mới phương pháp dạy và học Tiếng việt nói chung và Tập đọc nói riêng. Các kết quả đạt được trên là do có sự nỗ lực vươn lên của tập thể nhà trường trong đó có sự phấn đấu học tập và tự bồi dưỡng chuyên môn của tất cả các đồng chí giáo viên.
Trong đợt thi GV dạy giỏi cấp Huyện năm học 2018 - 2019 trường tôi tham gia và được Ban giám khảo Phòng Giáo dục - Đào tạo đánh giá rất cao chuyên môn và khả năng giảng dạy của các thầy cô. Điều đó làm chúng tôi vô cùng xúc động trước những thành công chỉ đạo của mình
 D. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận 
	Khi đưa ra các biện pháp dạy Tập đọc theo định hướng phát triển năng lực, để nâng cao chất lượng dạy và học cho đội ngũ giáo viên và học sinh cần chú ý một số nội dung sau:
	Quán triệt đầy đủ các nội dung về giáo dục, kế hoạch dạy học, các kiến thức cơ bản, kiến thức nâng cao, hoạt động trải nghiệm vào việc giảng dạy môn Tập đọc cho học sinh. 
	Chú ý mối quan hệ giữa các biện pháp, bảo đảm mang tính thống nhất chặt chẽ, tạo môi trường cho việc nâng cao chất lượng dạy và học.
	Trong thực tiễn nhiều biện pháp chỉ đạo dạy học Tập đọc theo định hướng phát triển năng lực cần chú ý tới người học đặc biệt là học sinh. Các biện pháp trên nhà trường đã triển khai và thực hiện tới tất cả các lớp 4;5 trong đó các giải pháp đã mang lại hiệu quả cao. 
 Sáng kiến kinh nghiệm này áp dụng được trong nhiều nhà trường tiểu học vì dễ triển khai và được đội ngũ giáo viên đón nhận nhiệt tình. Đây cũng là một nhu cầu mong muốn nâng cao trình độ của tất cả giáo viên. Chính vì thế khi triển khai sáng kiến kinh nghiệm này đã mang lại nhiều kết quả như mong muốn. 
2. Khuyến nghị:
2.1. Đối với cấp trên: Xây dựng chuyên đề về bài dạy Tập đọc ở lớp 4;5 theo định hướng phát triển năng lực để cho tất cả giáo viên trong huyện học tập.
2.2. Đối với nhà trường: Tạo mọi điều kiện để bồi dưỡng kiến thức nâng cao và phương pháp dạy học Tập đọc nói chung; cảm thụ thơ, văn nói riêng theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh cấp tiểu học. 
	Trên đây là một số kinh nghiệm trong quá trình chỉ đạo. Trong khi trình bày không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy bản thân tôi rất mong sự góp ý của hội đồng khoa học, các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để đưa ra những cách làm hay và hữu hiệu nhất. 
	Tôi xin chân thành cảm ơn!
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các văn bản chỉ đạo của ngành:
- HD số 3676/SGDĐT-GDPT ngày 31/8/2018
- HD số 594/HD-PGD ngày 16/8/2018
- Công văn số 652/GD&ĐT với cấp tiểu học trong đó có nêu rõ nhiệm vụ cho giáo viên dạy học sinh theo định hướng phát triển năng lực ngày 6/9/2018
- Thông tư 30 và TT 22/2006 của BGD
2. Luật Giáo dục Tiểu học
3. Giáo trình tâm lý học (Trường ĐH sư phạm)
4. Báo Thế giới trong ta 
5. Tuyển tập đề thi học sinh giỏi bậc Tiểu học môn Tiếng Việt (Nhà xuất bản Giáo dục)
8. Rèn kĩ năng Tập làm văn cho học sinh lớp 5(Lê Anh Xuân chủ biên)
9. Tiếng Việt nâng cao 4 (Lê Phương Nga chủ biên)
10. Tiếng Việt nâng cao 5 (Lê Phương Nga chủ biên)
11. Cảm thụ văn học (Lê Hữu Tỉnh)
12. Tài liệu tập huấn nâng cao năng lực ra đề kiểm tra định kì (Bộ Giáo dục và Đào tạo) theo Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_giao_vien_giang_day_mon_tap_do.doc