SKKN Đổi mới phương pháp trong dạy Tập làm văn nhằm phát triển năng lực cho học sinh Lớp 5 thông qua dạy học trải nghiệm và vận dụng trò chơi trong dạy học
Tổ chức hoạt động trải nghiệm
Đặc thù lứa tuổi tiểu học chủ yếu tiếp thu kiến thức thông qua tư duy trực quan sinh động. Vì vậy, việc cho các em tiếp xúc và trải nghiệm qua các hoạt động thực tế là hết sức quan trọng. Đối với phân môn Tập làm văn, để các em phát triển được vốn từ thì nên tạo cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm thực tế.
Tuy nhiên, để sự trải nghiệm có thêm nhiều bổ ích, giáo viên cần có những định hướng giúp các em biết cách quan sát và quan sát một cách khoa học. Việc đưa ra những câu hỏi gợi mở theo từng chủ đề cụ thể khi quan sát sẽ tạo cho các em biết cách triển khai và hoàn tất bài tập làm văn của riêng mình.
Trong dạy học trải nghiệm sáng tạo, GV có vai trò hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát trong quá trình các em tự trải nghiệm; hoặc ở vai trò tổ chức hoạt động, giúp học sinh chủ động, tích cực trong các hoạt động thực hành. Kết quả chính là năng lực thực tiễn, phẩm chất và năng lực sáng tạo đa dạng, khác nhau của học sinh.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Đổi mới phương pháp trong dạy Tập làm văn nhằm phát triển năng lực cho học sinh Lớp 5 thông qua dạy học trải nghiệm và vận dụng trò chơi trong dạy học
ừng phân môn cho phù hợp. Để dạy học với trò chơi hiệu quả, giáo viên phải biết thiết kế hoặc sáng tạo một số trò chơi sẵn có để giảng dạy qua hoạt động trải nghiệm trong lớp cũng như ngoài lớp học. Trước khi thiết kế cần: - Xác định rõ mục tiêu của bài tập để chọn trò chơi phù hợp. - Tiến hành thiết kế trò chơi Giáo viên tiến hành thiết kế trò chơi có hình thức chơi rõ ràng (người chơi, cách chơi, đồ dùng hỗ trợ), nội dung thực hiện trò chơi phải đảm bảo nội dung bài tập của Sách giáo khoa hoặc bổ sung thêm nội dung tùy vào việc xác định mục tiêu bài tập, của tiết học. Đồng thời thông qua đó rèn những kĩ năng cần thiết cho học sinh. Để mỗi giờ học Tiếng Việt hấp dẫn, thu hút học sinh, đòi hỏi người giáo viên phải luôn luôn sáng tạo trong việc sử dụng những trò chơi học tập cũ đồng thời tìm tòi, nghiên cứu để sáng tạo những trò chơi học tập mới. Giới thiệu một số trò chơi học tập môn Tiếng Việt lớp 5 Trò chơi “Ghép từ sáng tạo câu”. Trò chơi được sử dụng vào phân môn Luyện từ và câu, ứng dụng để viết được những câu văn hay, có sức gợi cảm khi làm văn. Mục tiêu: - Sắp xếp các từ ngữ để tạo thành các câu khác nhau. - Nhận biết một số câu hoàn chỉnh. Chuẩn bị: - Các bộ thẻ từ: “lúa, vàng ươm, chín, ngoài đồng”. - Số giấy đủ cho các nhóm để viết câu. vàng ươm ngoài đồng chín lúa Tiến hành: - Chia nhóm, mỗi nhóm 4-5 học sinh, phát bộ thẻ từ cho các nhóm. - Nêu cách chơi: Từng nhóm chọn các thẻ từ (không thứ tự) để sắp xếp lại thành câu và viết các câu khác nhau vào giấy (khi viết, nhớ thể hiện đúng cách viết hoa đầu câu và thêm dấu phẩy sau trạng ngữ). - Nhóm nào nhanh, đúng, được nhiều câu là thắng cuộc (khuyến khích câu có thể mở rộng câu dài hơn). Trò chơi “Khám phá bức tranh” Mục tiêu: - Có kĩ năng quan sát và miêu tả. - Mở rộng vốn từ miêu tả vẻ đẹp của cảnh. - Sử dụng trong các bài tập làm văn tả cảnh, tả người. Chuẩn bị: Số giấy A4, bút màu. Tiến hành: GV chia thành các nhóm và giao nhiệm vụ cùng trải nghiệm về một cảnh thật (cánh đồng, dòng sông, ngôi trường). Các nhóm cùng quan sát, vẽ tranh và ghi các từ miêu tả vẻ đẹp của cảnh đó theo sơ đồ tư duy.Trong thời gian quy định, nhóm nào tranh đẹp, ghi được nhiều từ ngữ miêu tả, có hình ảnh gợi cảm là nhóm thắng. Trò chơi “Cùng miêu tả” Trò chơi sử dụng vào phân môn Tập làm văn, bài: Luyện tập tả người. Mục tiêu: - Giúp học sinh: Phát triển vốn từ ngữ miêu tả người, đặc biệt là các từ miêu tả về ngoại hình. Chuẩn bị: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 - Một bộ ảnh chụp nhiều người ở các độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, nơi chốn khác nhau có đánh số từ 1 đến 9. - Bảng phụ có kẻ sẵn ô số như sau: Tiến hành: - Giáo viên gọi học sinh lên tham gia trò chơi. - Học sinh được gọi lên chọn một số bất kì trên bảng phụ. Sau đó giáo viên cử một học sinh khác dán bức ảnh có số tương ứng lên bảng, người chơi có nhiệm vụ miêu tả về người trong ảnh (từ 2-3 câu). - Giáo viên gọi tiếp một số học sinh khác tham gia trò chơi (số lượng phụ thuộc vào thời gian dành cho trò chơi). - Khi trò chơi kết thúc, giáo viên và cả lớp bình chọn người chơi miêu tả hay nhất. Học sinh nào có phiếu bình chọn nhiều nhất sẽ là người thắng cuộc. Trò chơi “Bông hoa nhiều cánh” Trò chơi vận dụng để củng cố lại kiến thức của bài chính tả ở sách Tiếng Việt 5. Ví dụ: Thi tìm nhanh: Các từ láy âm đầu l. Các từ láy vần có âm cuối ng. Mục tiêu: Giúp học sinh: - Ôn lại cách viết những từ ngữ có tiếng chứa âm đầu l và âm cuối ng. - Nhằm để khắc phục lỗi chính tả n/l; n/ng. Sử dụng những từ láy để viết câu văn miêu tả cảnh thiên nhiên, tả người Chuẩn bị: - Nhiều miếng bìa cắt theo hình cánh hoa (hình 1a) - Vẽ trực tiếp lên một tờ giấy to 2 vòng tròn làm hai nhị hoa. Trong mỗi nhị hoa ghi: các từ láy âm đầu l; các từ láy vần có âm cuối ng. (hình 1b) Các từ láy vần có âm cuối ng Các từ láy âm đầu l Hình 1a : Cánh hoa Hình 1b : Nhị hoa Tiến hành: - Giáo viên chia học sinh thành nhiều nhóm chơi tùy theo số bộ nhị hoa và cánh hoa chuẩn bị được. Các từ láy âm đầu l lấp lánh - Khi trò chơi bắt đầu, các nhóm chơi có nhiệm vụ ghi từ theo yêu cầu vào các cánh hoa (mỗi cánh hoa chỉ ghi một từ) rồi dán vào nhị hoa cho phù hợp. 3. Giải pháp thứ ba: Đan xen phương pháp tích hợp liên môn học. Tăng cường phương pháp thực hành luyện tập. - Trong quá trình trải nghiệm với phân môn Tập làm văn, giáo viên có thể kết hợp phương pháp tích hợp liên môn với các môn học khác để HS phát triển toàn diện về kĩ năng sống, ý thức giáo dục môi trường, cảm nhận âm nhạc, kĩ năng vẽ tranh đề tài Ví dụ: - Khi dạy về văn miêu tả cảnh quê hương em, GV kết hợp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thông qua môn Đạo đức, giáo dục kĩ năng sống lòng tự hào về quê hương, ý thức xây dựng bảo vệ quê hương đất nước. - Khi dạy về miêu tả cảnh hoặc tả người, GV có thể kết hợp với môn âm nhạc để HS được cảm nhận vẻ đẹp, phẩm chất tính cách con người qua những bài hát ca ngợi. Ví dụ: Học sinh nghe và hát bài hát về cha (mẹ), thầy cô rồi miêu tả viết những cảm nhận về cha mẹ, thầy cô Học sinh nghe những bài hát về quê hương Vĩnh Bảo để giới thiệu và miêu tả về quê hương Vĩnh Bảo anh hùng. - GV kết hợp với môn mĩ thuật để HS được trải nghiệm vẽ tranh phong cảnh, vẽ nhân vật yêu thích và đưa ra những lời bình về bức tranh đó, rèn luyện kĩ năng diễn đạt có sức gợi cảm, gợi tả. Ví dụ: Các em vẽ tranh về ngôi trường, sau đó đưa ra những lời bình, giới thiệu và miêu tả về ngôi trường đó (văn miêu tả về ngôi trường). Các em vẽ tranh về thầy (cô giáo) đang giảng bài rồi đưa ra lời giới thiệu và miêu tả về thầy cô: văn miêu tả thầy (cô) đang giảng bài. III.2. Tính mới, tính sáng tạo 2.1. Tính mới Dạy học Tiếng Việt 5 với hoạt động trải nghiệm và trò chơi cuốn hút học sinh tiểu học bởi các đặc trưng của nó: Trải nghiệm, trò chơi là một hoạt động tự nguyện, không gò ép, bắt buộc. Động cơ không nằm trong kết quả mà nằm trong quá trình trải nghiệm. Trò chơi mang tính tự do nên khi tham gia học sinh hoàn toàn chủ động trong suy nghĩ, trong hành động suốt quá trình vui chơi, do đó có thể phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của mình mà không bị phụ thuộc vào các yếu tố xung quanh, không bị người khác chi phối. Trong trải nghiệm, không khí cổ vũ sôi nổi của tập thể, học sinh sẽ phát huy mọi khả năng vốn có của mình, làm cho quá trình nhận thức trở nên dễ dàng, hiệu quả hơn. Trò chơi là một hoạt động sáng tạo, đầy yếu tố mới mẻ, bất ngờ; nhiều trò chơi được sử dụng nhiều lần nhưng vẫn lôi cuốn người tham gia, người xem và người tổ chức. Bởi lẽ, cả quá trình chơi cùng kết quả vui chơi luôn là một ẩn số bất ngờ với tất cả. Trong khi tham gia, người chơi luôn thể hiện sự sáng tạo, luôn tạo ra kịch tính, tạo ra những tình huống bất ngờ, khó dự đoán trước, khiến khán giả phải chăm chú, say sưa theo dõi. Ngoài ra thông qua hoạt động trải nghiệm, trò chơi học tập còn giúp các em phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng trung thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Vì vậy trải nghiệm, trò chơi học tập Tiếng Việt rất cần thiết trong giờ học Tiếng Việt ở lớp 5 nói riêng và ở Tiểu học nói chung. 2.2. Tính sáng tạo Học sinh tiểu học luôn thích thú những điều mới lạ. Vì vậy, để mỗi giờ học Tiếng Việt hấp dẫn, thu hút học sinh, đòi hỏi người giáo viên phải luôn luôn sáng tạo trong việc vận dụng những hình thức tổ chức dạy học như trải nghiệm. Không chỉ các em được trải nghiệm trong trường mà còn ngoài trường, ngoài cuộc sống mà các em không hay để ý. Tiết học không chỉ tổ chức trong lớp mà GV còn tổ chức ngoài lớp, được tham gia vào hoạt động trải nghiệm thực tế với cảnh thật, người thậtTham gia vào trò chơi học tập đồng thời tìm tòi, nghiên cứu để thiết kế những trò chơi học tập mới. Qua nhiều năm giảng dạy ở tiểu học đặc biệt là lớp 5, tôi đã sử dụng rất nhiều trò chơi học tập trong dạy Tiếng Việt như: trò chơi ô chữ, bingô, đôminô.Ngoài ra, được tiếp cận phương pháp tích cực của bộ môn Tiếng Việt, đã cung cấp cho tôi thêm nhiều ý tưởng sáng tạo các trò chơi học tập vận dụng vào giảng dạy nhằm phát triển các kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp của học sinh. - Hoạt động trải nghiệm, trò chơi tạo được hứng thú vui tươi cho tất cả các em học sinh. Vận dụng sáng tạo phương pháp liên môn học để phát triển kĩ năng trình bày, kĩ năng diễn đạt lưu loát, tạo sự hòa đồng, tự tin, mạnh dạn trong tất cả các em học sinh. Một giờ học có thể đạt được mục tiêu của nhiều môn học, giờ học không bị giới hạn bởi duy nhất 1 môn như trước. - Tiết học không có sự gò bó, sử dụng sản phẩm do chính các em tự trải nghiệm được để hình thành kiến thức tổng hợp. - Biết vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học cùng một lúc trong tiết học. Phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong chiếm lĩnh tri thức mới. - Học sinh yêu thích các môn học và tạo tâm lý thoải mái khi tham gia vào hoạt động học, biết học hỏi lẫn nhau và phát huy được khả năng sở trường của mỗi em. Nội dung bài Hình thành và khắc sâu Tìm tòi phát hiện Triển khai SP tự tạo - Sơ đồ theo cấu trúc 2/1-2/1-2/1-2/1 để học sinh nắm được kiến thức của 1 bài học thì phải trải qua 1 quá trình sáng tạo mới dựa trên những tư duy hiện có: HS trải nghiệm Sản phẩm tự tạo Hiểu sâu bản chất GV định hướng Kĩ năng học các môn - Mỗi GV khi lên lớp đều phải nắm bắt được mục tiêu kiến thức bài học trọng tâm, từ đó xác định phương pháp dạy học, cách thức con đường dạy học sao cho hiệu quả. Hiện nay những phương pháp dạy học mới đem lại hiệu quả cao và tích cực mà mỗi GV đã đang thực hiện như phương pháp Bàn tay nặn bột, phương pháp trò chơi học tập, dạy học nhóm, phương pháp V.Nen, tiết học vui, trò chơi Rung chuông vàng.Tất cả đều mục đích tạo nên sự hứng thú, hăng say trong học tập, phát huy tính tích cực của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Nhưng vận dụng như thế nào và cách thức tổ chức ra sao thì đòi hỏi người GV cần phải có những giải pháp, những con đường lựa chọn phù hợp linh hoạt và sáng tạo, tránh dập khuôn máy móc mà phải nhẹ nhàng mà hiệu quả. Mỗi phương pháp đều đòi hỏi sử dụng những đồ dùng dạy học thiết thực, phương tiện dạy học đa hình thức. III.3. Phạm vi ảnh hưởng, khả năng áp dụngcủa sáng kiến Đề tài tôi đưa ra với các giải pháp là áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới có sự kết hợp nhuần nhuyễn của những môn học để bổ trợ cho nhau nhằm thực hiện công việc dạy học cung cấp kiến thức Tiếng Việt cho học sinh lớp 5. Đồng thời tạo ra không khí vui tươi sôi nổi trong bài học, tiết học. Vấn đề đặt ra ở đây là mỗi giáo viên biết vận dụng như thế nào cho phù hợp và phải linh hoạt trong từng bài. Bên cạnh đó còn biết xây dựng cho học sinh sự tự giác, làm chủ hoạt động và thói quen học tập mới. “Nghị Quyết số 29-NQ/TW về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nghĩa là cần tổ chức các hoạt động giáo dục theo hướng tăng cường sự trải nghiệm, nhằm phát huy tính sáng tạo cho học sinh, tạo ra các môi trường khác nhau để học sinh được trải nghiệm nhiều nhất, đồng thời là sự khởi nguồn sáng tạo, biến những ý tưởng sáng tạo của học sinh thành hiện thực để các em thể hiện hết khả năng sáng tạo của mình. - Đề tài giúp cho mỗi GV có thể áp dụng ở các phân môn của Tiếng Việt, từ đó nhân rộng ra các môn học khác. - Có thể nhân rộng ở các lớp trong trường Tiểu học, các bài học, các môn học có những hoạt động liên quan đến thực tế cuộc sống. - Có khả năng áp dụng vào tất cả các đối tượng học sinh, từ đó có các biện pháp cách làm khác nhau đối với từng nhóm đối tượng học sinh. - Với đề tài đưa ra có thể nhân rộng ra môi trường học tập trong huyện, thành phố và trên đất nước ta. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chương trình là đổi mới phương pháp dạy học chuyển từ phương pháp truyền thụ kiến thức sang phương pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh, trong tiết học, học sinh tự quan sát, suy nghĩ, rồi rút ra kiến thức mới. Hơn nữa về phía học sinh, các em được học 2 buổi/ ngày nên kiến thức được giáo viên hướng dẫn kỹ hơn. III. 4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp - Giải pháp có lợi giúp cho mỗi giáo viên có được đổi mới phương pháp bằng hình thức tự học và nghiên cứu, không tốn thời gian và công sức. - Hiệu quả của nghiên cứu cũng giúp cho GV biết sử dụng những đồ dùng DH tự làm, tự thiết kế không phải mua, giảm chi phí cho nhà trường với số tiền lớn. - Giúp cho GV có được tài liệu quý để bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. - Giúp nhà trường có định hướng đúng đắn trong công tác chỉ đạo về đổi mới phương pháp dạy học bớt được các buổi phải tập huấn lại giáo viên, giảm bớt về thời gian và chi phí cho hoạt động này. - Mỗi giáo viên có thể tự học, tự nghiên cứu không phái tốn kinh phí cho việc mua sắm tài liệu tham khảo. - Hình thức dạy học ngoài trời giúp học sinh tìm hiểu rất nhiều kiến thức, kĩ năng từ cuộc sống; có nhiều lợi thế phát triển năng lực giao tiếp; tạo điều kiện để học sinh quan sát thiên nhiên, chơi các trò chơi. - Giúp cho các em học sinh hiểu chắc chắn kiến thức để phục vụ các kĩ năng khác trong cuộc sống. - Nâng cao chất lượng học tập của học sinh đáp ứng được mục tiêu giáo dục tiểu học. Giúp cho phụ huynh HS thấy được chất lượng học tập của con em mình tin tưởng và hợp tác cùng giáo dục học sinh. - Nâng cao tay nghề của mỗi giáo viên, giúp giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong dạy và học, nghiên cứu khoa học. - Từ những sản phẩm làm ra của học sinh, các em sẽ thích thú say mê tìm tòi để sáng tạo giảm bớt được thời gian tham gia vào các trò chơi game điện tử, tránh được một tệ nạn xấu trong xã hội. Khi tiến hành khảo sát đã thu được chất lượng lớp khảo sát đạt như sau: Thời gian kiểm tra Số học sinh Kết quả Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm < 5 SL % SL % SL % SL % Đầu tháng 9 38 3 7,8 % 15 39,5 % 18 47,3% 2 5,4% Cuối HKI 38 8 21 % 25 65,7% 5 13,3% 0 0 Qua thực nghiệm ta thấy hiệu quả rất khả quan, số học sinh học tốt được tăng lên đáng kể, số học sinh yếu không còn. Tạo ra một phong trào, hoạt động, cuộc cách mạng trong giáo dục theo tinh thần nghị quyết của Đảng về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. - Học sinh có tinh thần học tập say mê hơn với môn Tiếng Việt, không e ngại viết văn như trước. - Hoạt động ngoài lớp còn là cơ hội để học sinh bộc lộ cá tính, năng khiếu, sở trường, đồng thời hình thành thói quen hợp tác, tương trợ, học hỏi lẫn nhau. - Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu cho thấy đề tài cần được áp dụng vào hoạt động giảng dạy Tiếng Việt. Tôi cảm thấy mình được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì, nhẫn nại, sự ham muốn, say sưa với việc giảng dạy. Tuy nhiên với đề tài này của tôi nghiên cứu trong thời gian ngắn nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Bản thân mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của Hội đồng thẩm định sáng kiến các cấp cùng các bạn đồng nghiệp để giúp sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn góp phần vào việc nâng cao kết quả giảng dạy môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5. Tôi xin chân thành cảm ơn! TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN XÁC NHẬN Vĩnh Bảo, ngày 15 tháng 12 năm 2023 Tác giả sáng kiến
File đính kèm:
skkn_doi_moi_phuong_phap_trong_day_tap_lam_van_nham_phat_tri.doc

