SKKN Biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh Tiểu học
Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của các em ở lứa tuổi Tiểu học
Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập tích cực, nghiêm túc mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học.
Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học (ban hành kèm theo Quyết định số 16/của BGD – ĐT) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp ” Hướng dẫn 896″ của Bộ GD-ĐT đã đề ra.
Đặc trưng cơ bản của phân môn Tập làm văn là tính tổng hợp, thực hành sáng tạo mang dấu ấn cá nhân học sinh, trong quá trình tạo lập ngôn bản(ở cả hai dạng nói và viết) làm văn là một hoạt động giao tiếp.Vì vậy, trong nhà trườngViệc dạy Tập làm văn cho học sinh thực chất là dạy cho học sinh nắm cơ chế của việc sản sinh ngôn bản nói và viết theo các quy tắc ngôn ngữ, quy tắc giao tiếp nhằm đạt được mục đích giao tiếp.
Văn miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người, của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được những đối tượng ấy.
Văn miêu tả là loại văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho người đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật nào đó xung quanh ta.
Như vậy văn miêu tả có thể xem là một văn bản nghệ thuật có sử dụng ngôn ngữ văn chương để miêu tả sự vật hiện tượng một cách cụ thể sinh động. Bất kì hiện tượng nào trong thực tế đời sống cũng có thể miêu tả được, tuy nhiên bằng những cảm xúc khác nhau của mỗi người, mỗi hiện tượng lại được miêu tả với cách thể hiện riêng qua việc quan sát, sử dụng từ ngữ và cách diễn đạt khác nhau.
Đối tượng của bài văn miêu tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh ta như dòng sông, cánh đồng, hang cây… Khi viết bài văn tả cảnh cần đặc biệt tập trung vào những nét tiêu biểu của cảnh vật đó. Để bài văn được sinh động và hấp dẫn hơn với người đọc, ta có thể lồng vào đó việc tả người, tả vật với
những cung bậc cảm xúc khác nhau.
Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh và có nét riêng biệt. Chính vì thể để có bài văn hay đòi hỏi người viết phải có hiểu biết về phương pháp làm văn, phải biết dùng từ ngữ, biết vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật tu từ được học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh Tiểu học

bài cho bài văn tả con đường có thể mở bài trực tiếp: “Từ nhà em đến trường có thể đi theo nhiều ngả đường. Nhưng con đường mà em thích đi hơn cả là con đường Nguyễn Trường Tộ”. Nhưng cũng có thể vào bài gián tiếp: “Tuổi thơ em có biết bao kỉ niệm gắn bó với cảnh vật của quê hương. Đây là dòng sông nhỏ đầy ắp tiếng cười của bọn trẻ chúng em mỗi buổi chiều hè. Kia là triền đê rộn rã tiếng hát của thanh niên nam nữ những đêm trăng sáng. Nhưng gần gũi, thân thiết nhất với em vẫn là con đường từ nhà đến trường – con đường đẹp đẽ suốt những năm tháng học trò của em.” Như vậy, cũng là giới thiệu con đường từ nhà đến trường mỗi người lại có một cách giới thiệu riêng. Với học sinh, sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, giới thiệu, diễn đạt. Tuy nhiên chúng ta không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo một cách nào, mà chỉ dẫn cho học sinh cách vào bài phải bám sát yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không rườm rà nhưng cũng không thô kệch vô duyên. * Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết theo từng phần, từng ý đã sắp xếp khi quan sát, khi chuẩn bị bài. Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượngmiêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để tả. Khi liên kết câu văn, đoạn văn các em cần vận dụng các cách liên kết đã học ở Luyện từ và câu như: liên kết bằng từ ngữ nối, thay thế từ ngữ, lặp từ, Tuy nhiên khi sử dụng những cách liên kết này các em cần lựa chọn từ tránh sử dụng không đúng gây rườm rà. Và cần gắn với những kỉ niệm thực, kỉ niệm tuổi thơ ấu để làm nổi bật mối liên hệ giữa người viết với đối tượng miêu tả. VD: Con đường lúc nào cũng nhộn nhịp người qua lại. Chẳng có khi nào con đường vắng những bước chân nhỏ xíu của chúng em. Con đường như nhỏ lại bởi rộn rã những bước chân, tiếng xe cộ, tiếng trò chuyện, tiếng chào hỏi nhau rộn ràng.” Hay: “Chiều chiều đi học về, ngồi dưới gốc cây dõi theo đám thanh niên trong làng đào ổ chuột trên cánh đồng làng; Lắng nghe tiếng sáo diều vi vu trên bãi thả. Trao đổi với nhau những bài toán khó, những câu văn hay. ..” * Đoạn kết bài: Tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài nhưng rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được rất nhiều tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết bài không mở rộng. Kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc. Vì vậy giáo viên cần phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc tự nhiên của mình thông qua những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được những kết bài hay. Ví dụ: “ Con đường là sợi dây gắn kết tình cảm mọi người trong tình làng nghĩa xóm, tình cảm bạn bè. Em yêu quý con đường , em coi con đường như người bạn.” (Hình ảnh minh họa phần phụ lục) 2.4. Tôi thực hiện nghiêm túc tiết Trả bài Tập làm văn. Tiết Trả bài tập làm văn giúp các em sửa chữa lỗi, rút kinh nghiệm cho bài viết lần sau và học tập các bạn những cách viết hay để vận dụng vào các bài văn. Tuy nhiên, ở tiết học này một số giáo viên thường làm qua loa, không chữa kĩ càng, bớt xén thời gian để dạy môn khác. Vậy, muốn có được tiết trả bài có hiệu quả giáo viên cần phải: – Chấm bài cẩn thận, kĩ càng; chữa từng lỗi nhỏ trong bài viết cho học sinh. – Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại như: lỗi về cách dùng từ, đặt câu; lỗi diễn đạt; lỗi chính tả; ghi lại các từ, các câu hay, đoạn văn hay. – Nhận xét ưu điểm, nhược điểm; thống kê số lỗi. – Chữa lỗi cho học sinh theo từng loại như đã thống kê khi chấm bài. – Đọc những câu văn hay, đoạn văn hay để học sinh học tập. Trả bài và tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm để các em trao đổi với các bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu văn hay, giúp nhau sửa lỗi trong bài. Cho học sinh tự sửa lỗi và viết lại một đoạn cho đạt yêu cầu. Văn chương không phải là sợ đúng, sợ sai. Với làm văn đúng thôi chưa đủ phải thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm không phải là thứ có thể gò ép bắt buộc, tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các em. Bài văn không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng chữ, từng đoạn của bài. Vì vậy giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài một cách thường xuyên, liên tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa. Tất cả những công việc, từ những việc làm thông thường hàng ngày đến việc nghiêm túc đều thực hiện theo một chu trình nhất định, bắt đầu từ việc lập kế hoạch đến việc triển khai thực hiện kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra đánh giá lại những việc đã làm so với kết quả bỏ qua bất cứ khâu nào trong các khâu trên, nhất là các khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra đánh giá thì mới có thể biết được những ưu, khuyết điểm trong công việc đã thực hiện, để điều chỉnh cho những việc tiếp theo. Dạy tập làm văn cũng không nằm ngoài chu trình chung đó. Mỗi loại bài thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực hành ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc thì mới có tác dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối cùng “kiểm tra, đánh giá “nhằm mục đích giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung của giáo viên và kết quả bài viết của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ pháp, diễn đạt, chính tả, bố cục bài của mình và của các bạn, từ đó học sinh có thể học hỏi những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài không thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén thời lượng. Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách bài soạn đã hướng dẫn tôi thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ nhàm chán. Sau phần giáo viên nhận xét chung, tôi đã chữa lỗi cho học sinh theo từng loại lỗi thống kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước. Sau đó, tôi trả bài và tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học sinh sẽ thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy cũng sẽ giúp học sinh tránh được những lỗi không đáng có trong thực hành viết văn và trong cả giao tiếp hàng ngày. 5. Tôi chuẩn bị kĩ phần củng cố bài trong các tiết Tập làm văn: Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong cả tiết học nhưng lại là lúc giáo viên tóm tắt toàn bộ nội dung kiến thức của bài và mở ra hướng kiến thức mới cho tiết học sau, vì vậy cần chú ý ở phần củng cố bài hấp dẫn, thu hút được sự chú ý của các em. – Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn nhận mọi sự vật ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các em nên ở phần củng cố bài, tôi không đưa ra những bài văn mẫu hoàn chỉnh làm các em bắt chước, sao chép, dễ tạo cho các em cách làm văn sáo rỗng, na ná như nhau mà nên đưa ra những đoạn văn miêu tả toàn diện, phong phú hơn và từ đó các em biết sẽ chắt lọc , tìm tòi những chi tiết đặc săc, học tập được các câu, các từ hay, cách diễn đạt hợp lí cho bài làm của mình. Chẳng hạn, trong tiết luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả , phần củng cố bài, tôi có thể đọc cho học sinh nghe một đoạn văn của chính một học sinh nào đó trong lớp viết mà tôi cho là hay, có cảm xúc, có hình ảnh, diễn đạt đúng cấu trúc ngữ pháp, lời văn giản dị. Khi đưa ra đoạn văn đọc cho học sinh nghe cần phân tích, đánh giá để học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh nhận rõ nội dung miêu tả, sự khác biệt trong miêu tả và nét đặc sắc trong cách hành văn. Việc đưa ra đoạn văn mẫu cùng với lời phân tích rõ ràng như vậy sẽ giúp học sinh hình dung ra đối tượng miêu tả một cách cụ thể, sinh động hơn, giúp học sinh vận dụng cách dùng từ đặt câu vào bài viết của mình. 2.6. Tôi chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài học vì nó góp phần làm nên 50% sự thành công trong tiết dạy học: Trong bất kỳ hoạt động nào việc chuẩn bị cũng hết sức quan trọng, chuẩn bị cũng chính là kế hoạch cho công việc mình định làm, đó là việc làm đầu tiên, tất yếu của mỗi hoạt động. Soạn bài là việc làm đầu tiên, tất yếu của người giáo viên, Bài soạn chính là bản kế hoạch của giờ lên lớp, ngày nay được gọi là kế hoạch bài học. Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng có chất lượng, có tác dụng thiết thực, đem lại hiệu quả cao, tôi phải huy động tối đa tất cả năng lực, phẩm chất của mình như năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng lực hiểu học sinh, năng lực ngôn ngữlòng yêu nghề, niềm tin sự nhiệt tình và lòng đam mê nghề nghiệp. Giáo án điều chỉnh có chất lượng phải chuyển hoá được những kiến thức của sách vở đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, tự nhiên được thực hiện hoá qua tiết học trên lớp Mỗi giáo viên cần nhận xét sâu sắc tầm quan trọng của việc chuẩn bị kế hoạch bài học trước khi lên lớp, kế hoạch ấy có thể được ghi chép lại cẩn thận trong giáo án, cũng có thể là tự suy nghĩ sắp xếp trong trí óc miễn là nó phải được thực hiện một cách nghiêm túc và hết sức tự giác. Có kế hoạch bài giảng chu đáo tức là giáo viên đã chuẩn bị tốt mọi nội dung thực hiện trên lớp, từ tiết lý thuyết đến các tiết thực hành xây dựng đoạn văn và tiết trả bài, từ phần kiểm tra bài cũ đến phần củng cố bài học. Như vậy giáo viên có thể thực hiện được bảy biện pháp trên một cách dễ dàng và chất lượng dạy học chắc chắn sẽ được nâng cao. Qua nghiên cứu thực tế tôi có thể mạnh dạn đưa ra các giai đoạn của việc soạn giáo án một bài cụ thể như sau: + Giai đoạn 1: Xác định mục tiêu bài học + Giai đoạn 2: Chuẩn bị đồ dùng, phương tiện dạy học + Giai đoạn 3:Lựa chọn phương pháp dạy học + Giai đoạn 4: Thiết kế các hoạt động dạy học Muốn có đầy đủ thông tin và kiến thức cho một tiết học, thực hiện được tốt các giai đoạn trên, người giáo viên cần không ngừng học tập nâng cao trình độ, tham gia đủ các lớp học chuyên môn, các buổi hội thảo do nhà trường và các cấp quản lý triển khai, chịu khó sưu tầm các loại sách vở liên quan đến chuyên môn. Đặc biệt trong thời đại mà khoa học công nghệ thông tin đã phát triển mạnh mẽ, người giáo viên hơn ai hết phải là người đi đầu trong việc tự học tập để tiếp thu khoa học công nghệ thông tin hiện đại ấy. Việc tra cứu tìm tư liệu trên mạng cũng rất đơn giản, lại không tốn kém đáng kể về kinh tế, ngoài giờ lên lớp, mỗi ngày tôi có thể dành một thời giờ để lên mạng tìm những thông tin cần thiết cho các bài giảng, như vậy vốn kiến thức của chúng ta sẽ phong phú lên rất nhiều và bài giảng chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn, nhất là với việc dạy văn miêu tả thì điều này lại càng cần thiết. Dạy văn miêu tả là một việc làm khó, nhất là nếu chúng ta đơn độc thực hiện lại càng khó hơn nên rất cần sự đóng góp trí tuệ của tập thể, của bạn bè đồng nghiệp. Vì vậy, tôi nghiêm túc trao đổi cùng bạn bè đồng nghiệp về chuyên môn nghiệp vụ trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Mỗi buổi có thể trao đổi về một chủ đề, về một tiết tập làm văn nào đó, có thể cả tổ xây dựng một số tiết mẫu sau đó về nhà mỗi người sẽ tuỳ thuộc vào đối tượng học sinh lớp mình mà cụ thể hoá thành kế hoạch của riêng mình. Như vậy sẽ phát huy được sức mạnh của tập thể và mỗi chúng ta cũng học hỏi được từ đồng nghiệp rất nhiều. => Tóm lại: Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách trở thành vốn tri thức phát triển của học sinh lại càng khó hơn. Với tập làm văn, người dạy phải gửi cả tâm hồn mình vào bài dạy, thầy trò phải cùng đắm mình vào đối tượng miêu tả theo một dòng cảm xúc, cùng hoà chung tình cảm để cùng tìm hiểu về cảm nhận với niềm say mê, thích thú. Muốn vậy tôi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi lên lớp. Chuẩn bị đầy đủ về tâm thế, về nội dung, phương pháp, đồ dùng, phương tiện dạy học, mục tiêu, ý nghĩa giáo dục, khả năng, trình độ của học sinh. Phải tìm tòi, nghiên cứu để có được những câu hỏi gợi mở phù hợp với trình độ học sinh, chuẩn bị cả những từ, những câu văn thích hợp để sửa sai hoặc để làm mẫu cho học sinh. Nó đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực sáng tạo trong suốt quá trình dạy học. Chỉ có nghiên cứu sáng tạo mới cho giáo viên có được những giờ dạy văn miêu tả mới mẻ, hiệu quả cao. Nếu không có những sáng tạo mới trong dạy tập làm văn nhất là văn miêu tả thì giờ dạy văn miêu tả chỉ là sự kiệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả, giờ học sẽ gượng ép, gò bó, thiếu tâm hồn văn học. III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI Hiệu quả kinh tế: Sáng kiến “Biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh tiểu học” của tôi không mang lại hiệu quả kinh tế lớn . Hiệu quả về mặt xã hội: Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học trên trong thực tôi nhận thấy các em học sinh của lớp mình dạy có rất nhiều tiến bộ. Từ việc ngại viết văn các em đã hứng thú làm văn hơn, biết thực hiện làm một bài văn miêu tả cảnh theo trình tự các bước một cách độc lập và thành thói quen tốt. Nhiều bài văn có chất lượng cao. Tình trạng học sinh làm lạc đề, sai lỗi , chất lượng các bài văn miêu tả (tả cảnh, tả người) của lớp tôi có sự thay đổi rõ rệt. Các em đã biết cách dùng từ, đặt câu trong miêu tả, các em biết sử dụng ngữ nghĩa rất chính xác. Các bài tập làm văn của các em không còn mang tính liệt kê, kể lể nữa. Thực sự các bài văn đã được thổi hồn vào trong Các lỗi về chính tả, dùng từ đặt câu đã giảm rõ rệt. Nhiều học sinh biết cách sử dụng những biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa vào bài của mình làm cho bài văn trở nên sinh động và giàu hình ảnh. Bên cạnh đó các em còn biết làm văn có cảm xúc hơn, câu văn chau chuốt hơn Không riêng nội dung các bài văn miêu tả mà hầu hết phần kiến thức cơ bản của môn tập làm văn lớp 5 học sinh lớp tôi làm bài rất đảm bảo yêu cầu. Một phần nào cũng đáp ứng được những gì mà người bản thân tôi mong đợi từ các em. Đã tạo được cho học sinh có hứng thú, say mê trong học tập, thích khám phá, tìm tòi sáng tạo những cái mới, góp phần phát triển năng lực phẩm chất của học sinh. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. Trên đây là những kinh nghiệm được đúc rút qua thực thế áp dụng giảng dạy của bản thân tôi. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng nghiệp để vốn kinh nghiệm giảng dạy của tôi được phong phú hơn. CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN (xác nhận,đánh giá, xếp loại) .. (Ký tên, đóng dấu) TÁC GIẢ SÁNG KIẾN (Ký tên) Nguyễn Thu Trà PHÒNG GD&ĐT (xác nhận, đánh giá, xếp loại) CÁC PHỤ LỤC (Kèm theo Báo cáo sáng kiến) Bản vẽ mô tả chi tiết giải pháp kỹ thuật của sáng kiến (nếu có) Ảnh minh họa sáng kiến được áp dụng trong thực tế *Hình ảnh học sinh các nhóm được trực tiếp quan sát cảnh ngôi trường trong giờ Tập làm văn
File đính kèm:
skkn_bien_phap_giup_hoc_sinh_lam_tot_bai_van_mieu_ta_theo_hu.docx