SKKN Áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh Lớp 2 - Chương trình mới
Kể chuyện là khả năng sử dụng ngôn ngữ ở dạng nói có tính nghệ thuật. Đây là một dạng đặc biệt của đối thoại.
Thực tế cho thấy kể chuyện có một sức hấp dẫn kỳ lạ, đặc biệt với học sinh lứa tuổi tiểu học. Sức hấp dẫn đó không hềgiảm đi dù câu chuyện đã được các em đọc trước nhiều lần. Bởi lẽ khi kể một câu chuyện, người kể không trình bày nguyên văn một bản viết hay đọc lại văn bản đó, mà lúc này người kể nhập vào một thế giới, khác với thế giới đang sống, đó là thế giới của câu chuyện. Trong câu chuyện ấy, người kể lúc là người dẫn chuyện, lúc lại là nhân vật này hoặc nhân vật khác. Người kể thể hiện tâm trạng của những nhân vật khác nhau, khi thì vui sướng, hả hê, lúc lại buồn rầu, lo lắng.
Như vậy, kể chuyện thực sự mang tính tổng hợp. Nó sử dụng các hiểu biết và kĩ năng dùng từ, đặt câu kĩ năng nghe, nói Tiếng việt, kĩ năng trình bày trước công chúng. Nói cách khác đó là khả năng vận dụng nhữnghiểu biết về ngôn ngữ, lý thuyết sản sinh lời nói và sự hiểu biết về văn học... vào việc kể chuyện.
Như vậy là học sinh đã được rèn luyện một hoạt động kĩ năng kể chuyện, kĩ năng giao tiếp bằng lời của mình. Hệ thống các kĩ năng kể chuyện cũng chính là hệ thống hoạt động sản sinh lời nói nhưng ở dạng kĩ năng sản sinh văn bản mới.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh Lớp 2 - Chương trình mới

uyện. Những câu gợi ý đó lại gợi lại trí nhớ, trí tưởng tượng của học sinh một cách dễ dàng. Lệnh của hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp thường là: “Dựa vào các gợi ý sau kể lại từng đoạn của câu chuyện mới học”. Sau khi phát lệnh, giáo viên ghi gợi ý của từng đoạn lên bảng và cho học sinh nhìn vào gợi ý đó để các em có thể kể lại. Tuy nhiên, để cho hình thức này phát huy hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học sinh thì giáo viên không nên ghi những gợi ý đó lên bảng ngay, mà cần đưa ra câu hỏi cho học sinh trả lời. Những câu hỏi này phải đảm bảo tính logic của truyện. Như vậy, ở hình thức này, sách giáo khoa có những dạng bài tập cụ thể sau: Dạng 1: Sách giáo khoa đưa ra gợi ý hoặc dàn ý tương đối cụ thể để hướng dẫn học sinh kể lại câu chuyện. Ví dụ: bài Chim sơn ca và bông cúc trắng (Tiếng Việt2-tuần 21). Có một số bài thay dạng bài tập này bằng dạng bài tập “Dựa vào tóm tắt sau kể lại câu chuyện”. Ví dụ: Người làm đồ chơi (Tiếng Việt 2-tuần 34). Dạng 2: Nêu những nhân vật trong câu chuyện, kể lại sự xuất hiện của nhân vật, nhắc lại lời nhân vật. Ví dụ truyện Người thầy cũ (Tiếng Việt 2 - tập 1), Bạn của Nai nhỏ(Tiếng Việt 2-tập 1),.... Dạng 3: Tóm tắt nội dung của từng đoạn bằng một câu và đặt tên cho từng đoạn truyện. Ví dụ truyện Một trí khôn hơn trăm trí khôn (Tiếng Việt 2 –tuần 22). Trong sách giáo viên: Thứ nhất: Dạng bài tập nhắc lại lời nhân vật trong truyện. Ví dụ truyện “Bạn của Nai nhỏ” (Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: nhắc lại lời của Nai bố khi Nai nhỏ kể về bạn, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau: Giáo viên cho học sinh nhìn lại tranh, nhớ và nhắc lại lời của Nai cha với Nai nhỏ. (Có thể gợi ý: nghe Nai nhỏ kể lại hành động hích đổ hòn đá to của bạn, cha Nai nói thế nào? Nghe Nai nhỏ kể chuyện người bạn đã nhanh trí kéo mình chạy trốn khỏi con thú dữ, cha Nai đã nói gì? Nghe xong chuyện bạn mình húc ngã lão Sói để cứu Dê non, cha Nai đã mừng rỡ nói với con như thế nào?...) Vài học sinh nhắc lại những lời của Nai bố nói với con theo yêu cầu nói trên; giáo viên nhận xét, uốn nắn( nếu cần). Chú ý: Học sinh chỉ cần nhắc lại đúng ý cơ bản của lời nhân vật (Nai nhỏ, Nai bố), không nhất thiết phải nêu nguyên các câu văn trong sách giáo khoa. Như vậy, ở dạng bài tập này, sách giáo viên đã hướng dẫn khá cụ thể, chi tiết tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi tiến hành tiết dạy kể chuyện. Giáo viên không mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị giáo án. Cũng chính vì vậy mà học sinh được rèn kĩ năng nói tốt hơn. Thứ hai: Dạng bài kể lại sự xuất hiện của nhân vật. Ví dụ truyện Người thầy cũ(Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: Câu chuyện gồm có mấy nhân vật? Kể lại sự xuất hiện của nhân vật chính( chú bộ đội) ở đoạn 1, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau: Dạy theo quy trình đã hướng dẫn. Chú ý: + ý nghĩ của Dũng. Các nhân vật trong câu chuyện: Dũng, chú bộ đội tên là Khánh (bố của Dũng ) và là thầy giáo. Mở đầu câu chuyện: sự xuất hiện của nhân vật chính-chú bộ đội. Những chi tiết chính cần kể: + Địa điểm diễn ra câu chuyện: trường của Dũng. + Thời gian diễn ra câu chuyện: giờ ra chơi. + Nhân vật: chú bộ đội. + Lí do xuất hiện của nhân vật: đến thăm thầy giáo cũ, cũng chính là thầy giáo của con mình (Dũng). Kết thúc câu chuyện: + Bố của Dũng chào thầy giáo, ra rể . Như vậy, cũng giống như dạng bài tập trên, ở dạng bài tập này, sách giáo viên cũng hướng dẫn khá kĩ. Chắc chắn khi nhìn vào những gợi ý này học sinh sẽ kể được truyện. Thứ ba: Dạng bài tập dựa vào gợi ý, kể laị từng đoạn câu chuyện. Ví dụ truyện “Chim sơn ca và bông cúc trắng” (lớp 2 –tập 2), yêu cầu: Dựa vào các gợi ý dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện trên bằng lời của em; sách giáo viên đã hướng dẫn như sau: Trước khi kể từng đoạn, giáo viên cho học sinh đọc thầm toàn bộ dàn ý câu chuyện trong sách giáo khoa, trả lời: Truyện có mấy đoạn? Nôị dung chính của từng đoạn? Truyện có 4 đoạn: + Đoạn 1: Cuộc sống tự do, sung sướng của Sơn Ca và Cúc. + Đoạn 2: Sơn Ca bị cầm tù. + Đoạn 3: Trong tù. + Đoạn 4 : Sự hối hận muộn màng. Giáo viên viết nội dung từng đoạn lên bảng. Qua đây ta thấy: ở dạng bài tập này, sách giáo viên cũng đã hướng dẫn khá kĩ. Điều đó giúp giáo viên rất nhiều trong giờ lên lớp tiết kể chuyện. Bởi giáo viên không mất nhiều thời gian trong việc chuẩn bị giáo án, hơn nữa lại giúp học sinh rèn kĩ năng nói tốt. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai: Thế nào là kể chuyện phân vai? Đây là hình thức thu hút được đông đảo học sinh tham gia. Không chỉ các em tham gia đóng vai có thể hiện tính cách của nhân vật mà các em ngồi dưới theo dõi, cổ vũ hết sức nhiệt tình. Chính sự hứng thú của học sinh là điều kiện tốt để giáo viên rèn luyện kĩ năng nói, giao tiếp cho các em trong giờ kể chuyện. Ví dụ khi phân vai dựng lại câu chuyện Quả tim khỉ (Lớp 2-tập 2) gọi 3 em: một em đóng vai người dẫn chuyện, một em đóng vai Khỉ, và một em đóng vai Cá sấu. Giọng người dẫn chuyện chậm rãi, nhẹ nhàng; giọng Khỉ ân cần lúc hỏi han Cá Sấu và bình thản khi biết âm mưu của Cá Sấu; giọng Cá Sấu buồn một cách giả dối, đặc biệt là con mắt của Cá Sấu thỉnh thoảng lại liếc sang Khỉ để dò thái độ. Sau khi hướng dẫn xong, có thể giáo viên làm mẫu cho học sinh xem. Như vậy, những dạng bài tập hình thức kể chuyện phong phú đã thu hút, lôi cuốn các em trong giờ kể chuyện, làm cho các em như sống lại với những nhân vật trong truyện. Với niềm say mê của học sinh cũng như sự dạy dỗ tận tình của giáo viên và phương pháp dạy học phù hợp thì giờ kể chuyện sẽ là một môi trường tốt để rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói cho học sinh. Sau đây là một giáo án minh họa Bài Chuyện qủa bầu (lớp 2-tuần 32) A.Mục tiêu: Học sinh dựa vào trí nhớ và tranh minh hoạ, kể lại được từng đoạn của câu chuyện theo hai hình thức: kể theo tranh, kể sáng tạo phần mở đầu. + Kể theo tranh: kể đoạn 1, 2. + Dùng hệ thống câu hỏi gợi ý kể lại đoạn 3. + Kể sáng tạo phần mở đầu : theo cách mở đầu trong sách giáo khoa. B. Đồ dùng dạy học: Tranh minh hoạ(đoạn 1, đoạn 2 trong sách giáo khoa). Ba bảng phụ ghi lại gợi ý của đoạn 1, đoạn 2, đoạn 3 (như sách học sinh). C.Các hoạt động dạy học chủ yếu: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh Kiểm tra bài cũ (7phút). Trong giờ kể chuyện trước, các con đã được kể câu chuyện “Chiếc rễ đa tròn.” Câu chuyện gồm 3 đoạn, cô mời 3 bạn kể nối tiếp 3 đoạn của câu chuyện. Giáo viên nhận xét, cho điểm từng học sinh. Câu chuyện “Chiếc rễ đa tròn” nói lên điều gì? Giáo viên nhận xét, cho điểm. Giáo viên nhận xét việc học bài cũ của học sinh. Ba học sinh kể nối tiếp 3 đoạn của câu chuyện. Câu chuyện nói lên tình thương bao la của Bác Hồ đối với mọi người, mọi vật sống xung quanh. Một chiếc rễ đa tròn rơi xuống đất, Bác cũng thương, muốn trồng lại cho rễ mọc thành cây, nhưng cây Bác muốn trồng mọc uốn theo hình vòng tròn làm chỗ vui chơi cho các cháu thiếu nhi. 2.Bài mới: a. Giới thiệu bài (2 phút). - Bài Chuyện quả bầu. -Trong tiết Tập đọc trước, các con đã được học bài tập đọc gì? Trong giờ kể chuyện hôm nay, các con sẽ tập kể lại đoạn 1, đoạn 2 theo tranh, đoạn 3 theo gợi ý hướng dẫn trong sách giáo khoa. Sau đó kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách mở đầu mới. Các con mở sách Tiếng Việt trang 120 cho cô. Giáo viên ghi tên đầu bài lên bảng. b.Bài mới: * Dựa theo tranh, kể lại đoạn 1 và đoạn 2 của Chuyện quả bầu. + Kể lại đoạn 1 Giáo viên treo tranh (thể hiện nội dung của đoạn 1). Nhìn vào tranh, ai cho cô biết, tác giả vẽ mấy nhân vật trong bức tranh này? Đó là những nhân vật nào? (Giáo viên ghi bảng: ghi vào phần gợi ý). Con Dúi làm gì khi bị hai vợ Học sinh làm theo lời giáo viên. -Học sinh quan sát tranh. Trong tranh vẽ 3 nhân vật: Con Dúi, vợ chồng người đi rừng. Con Dúi lạy van xin tha, hứa sẽ nói điều bí mật. Con Dúi mách: sắp có mưa to, gió lớn làm ngập lụt khắp miền, khuyên hai vợ chồng người đi rừng bắt? chồng cách phòng lụt. (Giáo viên ghi bảng: ghi vào phần gợi ý: Con Dúi lạy van xin tha...) Giọng kể khoan thai, chậm rãi. Hai học sinh kể. - Con Dúi mách điều bí mật gì? -Học sinh nhận xét. (Giáo viên ghi bảng: ghi vào phần gợi ý...) - Đoạn này nên kể với giọng thế nào? - Bức tranh vẽ cảnh sau nạn lụt. Tác giả vẽ cảnh hai vợ chồng vừa bước ra từ qủa bầu. Họ thấy cảnh vật xung quanh đều tàn tạ, héo úa. Dựa vào tranh và những gợi ý trên, cô mời các con kể lại đoạn 1 của câu chuyện. Giáo viên gợi ý học sinh nhận xét cách bạn kể: kể đúng, đủ ý chưa, đã bám sát vào tranh chưa? Giọng kể có thích hợp không, bạn dùng từ có thích hợp không? - Họ nghe lời khuyên của Dúi: lấy khúc gỗ to, khoét rỗng, chuẩn bị thức ăn đủ bảy ngày, bảy đêm, rồi chui vào đó, bịt kín miệng gỗ bằng sáp ong, hết hạn bảy ngày mới chui ra. - Giáo viên nhận xét, cho điểm. + Kể lại đoạn 2 - Nhìn vào tranh cho cô biết: bức tranh vẽ cảnh gì? Hãy tả lại cảnh đó. - Như vậy, hai vợ chồng họ đã làm cách nào để thoát khỏi nạn lụt? (Giáo viên ghi bảng: vào phần gợi ý...). - Đoạn này chúng ta nên kể với giọng như thế nào? - Lên giọng khi kể về trận lụt xảy ra bất ngờ, thấp giọng khi kể về cảnh vật sau trận lụt. - Cô mời một bạn kể lại đoạn 2 theo gợi ý trên, chú ý thể hiện đúng giọng kể. - Hai học sinh kể lại - Giáo viên gọi học sinh nhận xét bạn kể: đúng, đủ ý chưa? giọng kể có phù hợp không? - Học sinh nhận xét - Giáo viên nhận xét cho điểm + Kể lại đoạn 3: - Khi sinh con, việc kỳ lạ gì đã xảy ra đối với người vợ? - Người vợ sinh ra quả bầu. - Sau đó câu chuyện diễn biến thế nào? - Hai vợ chồng đi làm nương về, nghe thấy tiếng cười đùa trên bếp. Lấy làm lạ, họ lấy bầu xuống, áp tai nghe thì thấy tiếng lao xao. Người vợ lấy que đốt thành cái dùi, nhẹ nhàng dùi quả bầu. Từ trong quả bầu, những con người bé nhỏ nhảy ra. - Giáo viên treo bảng phụ gợi ý đoạn 3 - Theo các con, đoạn 3 nên kể với giọng như thế nào? - Kể với giọng trầm, chậm, thể hiện sự kỳ lạ xảy ra đối với hai vợ chồng; dừng lại một lúc trước đoạn “Các con người bé nhỏ nhảy ra từ trong quả bầu” để cho người nghe hồi hộp. - Con hãy dựa vào gợi ý, dùng giọng kể thích hợp để kể lại đoạn 3 - Hai học sinh kể lại đoạn 3 - Giáo viên gọi học sinh nhận xét bạn kể: đúng, đủ ý chưa? giọng kể có thích hợp không? - Học sinh nhận xét - Giáo viên nhận xét cho điểm - Vừa rồi các con đã được kể lại - 3 học sinh kể nối tiếp 3 đoạn từng đoạn truyện. Bây giờ cô mời 3 bạn kể nối tiếp 3 đoạn truyện. truyện - Học sinh nhận xét bạn kể: ý, trình tự, giọng kể. - Học sinh nhận xét - Ai cho cô biết, câu chuyện này muốn nói với chúng ta điều gì? - Câu chuyện giới thiệu nguồn gốc các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam . - Câu chuyện giúp chúng ta hiểu điều gì? - Khẳng định các dân tộc anh em một nhà, cùng một nguồn gốc. * Kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách mở đầu mới (kể sáng tạo): Đất nước ta có 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có tiếng nói riêng, có cách ăn mặc riêng. Nhưng tất cả các dân tộc ấy đều được sinh ra từ một mẹ. Chuyện kể rằng... - Vừa rồi các con đã kể lại được toàn bộ câu chuyện, bây giờ các con cũng sẽ kể lại câu chuyện này nhưng với mở đầu mới. Khi kể, các con có thể dùng phần chú giải trong bài Tập đọc - Hai học sinh kể lại. để thay thế, thêm bớt từ trong truyện. - Cô mời một bạn kể lại truyện theo cách cô đã hướng dẫn trên. - Giáo viên gọi học sinh nhận xét bạn kể: đúng, đủ ý chưa? bạn có kể theo đúng cách trên không? Bạn đã thay đổi, thêm bớt từ nào? Bạn thay từ, dùng từ như thế đã phù hợp chưa? - Học sinh nhận xét bạn kể - Giáo viên nhận xét, cho điểm 3. Củng cố (7 phút): - Vừa rồi, các con đã được kể câu chuyện Chuyện quả bầu, câu chuyện muốn nói với chúng ta điều gì? - Câu chuyện nói về nguồn gốc các dân tộc Việt Nam - Câu chuyện giúp chúng ta hiểu điều gì? - Câu chuyện giúp chúng ta hiểu: Các dân tộc trên đất nước ta đều là anh em, phải yêu quý các dân tộc anh em. - Bây giờ, 4 tổ mỗi tổ cử một bạn đại diện thi kể lại đoạn 1, đoạn 2 theo cách mở đầu mà cô đã hướng dẫn. - Đại diện 4 tổ lần lượt kể lại đoạn 1, đoạn 2 của câu chuyện. Khi kể các con chú ý kể với giọng phù hợp, có thể kết hợp sử dụng điệu bộ để diễn tả cho câu chuyện thêm sinh động - Giáo viên gọi học sinh nhận xét nhóm bạn kể: đúng, đủ ý không? Giọng kể có phù hợp không? - Học sinh nhận xét - Giáo viên nhận xét, cho điểm - Bạn nào có thể đặt tên khác cho câu chuyện? - Truyện các dân tộc Việt Nam Các dân tộc Việt Nam là anh em. - Giáo viên nhận xét chung giờ học 4. Dặn dò (1 phút): - Dặn học sinh kể lại câu chuyện cho bạn bè và người thân nghe (có thể kể bằng lời của mình). Qua giáo án trên tôi thấy: nếu được giáo viên hướng dẫn cách nghe, nêu trước những yêu cầu nhận xét trước khi kể chuyện, thì các em sẽ rất chú ý nghe bạn kể và đưa ra được những nhận xét nhanh, chính xác hơn so với cách sau khi học sinh kể, giáo viên mới yêu cầu nhận xét. Phần IV: Tự đánh giá kết quả thực hiện Việc áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2 theo chương trình SGK mới tôi thấy rất hiệu quả. Qua hai năm thực hiện việc thay sách, tôi thấy học sinh ở lớp 2 do tôi chủ nhiệm đã có rất nhiều tiến bộ. ở mỗi tiết kể chuyện, các em đã biết kể lại câu chuyện ở các mức độ: kể bằng lời trong văn bản, kể bằng lời của mình, kể bằng lời của nhân vật trong câu chuyện. Hầu hết các em đều kể rất tốt, lưu loát, biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội dung câu chuyện, bước đầu biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ để hỗ trợ cho lời kể. Khi kể, các em biết thay thế, thêm bớt các từ ngữ làm cho câu chuyện sinh động hơn. Hầu hết học sinh đã biết trước được nội dung của câu chuyện nên có rất nhiều thời gian để rèn kĩ năng nói cho học sinh. Đặc biệt khi dùng dàn ý hoặc câu hỏi, rất ít em phải nhìn vào dàn ý đó để kể lại. Với phương châm lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người chỉ đạo, hướng dẫn, còn học sinh là người thực hiện triển khai công việc, tôi nghĩ trong giờ dạy, giáo viên nên tạo ra trong lớp học một không khí sôi nổi thoải mái. Giáo viên nên dùng các hình thức động viên, khuyến khích các em, đặc biệt là đối với những em dụt dè, chưa tự tin. Bởi lẽ ai cũng biết, hoạt động giao tiếp là hoạt động có ý nghĩa sống còn đối với xã hội. Giao tiếp đối với học sinh tiểu học là vô cùng cần thiết. Việc rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cũng vậy, nó giúp các em khi tiếp xúc với bạn bè, với thầy cô, với người thân một cách tự nhiên hơn, thân mật hơn và tự tin hơn rất nhiều. Phần V: Phạm vi áp dụng Qua đây tôi cũng thấy, việc rèn kỹ năng nói cho học sinh qua phân môn kể chuyện là rất cần thiết và quan trọng. Việc áp dụng một số biện pháp để rèn kĩ năng nói cho học sinh nêu trên có thể áp dụng đối với tất cả các tiết kể chuyện, các đối tượng học sinh từ lớp 1 đến lớp 5. Tuy nhiên, đối với những học sinh bị ngọng bẩm sinh thì việc thực hiện sẽ gặp khó khăn hơn. Trên đây là kinh nghiệm tôi đã thực hiện và áp dụng trong quá trình dạy học. Muốn làm tốt được điều này đòi hỏi mỗi giáo viên chúng ta phải luôn chịu khó tự tìm tòi học hỏi và đặc biệt phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, nhất định chúng ta sẽ tìm được biện pháp thích hợp để rèn kĩ năng nói cho học sinh trong tất cả các tiết học, nhất là tiết kể chuyện.
File đính kèm:
skkn_ap_dung_mot_so_bien_phap_de_ren_ky_nang_noi_trong_gio_k.docx
SKKN Áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh Lớp 2 - Chương trì.pdf