Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2

Trong những năm qua, trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, dạy tiếng Việt không chỉ dạy cho các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà điều quan trọng là dạy các em sử dụng lời nói tình cảm trong giao tiếp. Nếu một người đọc thông, viết thạo tất cả các văn bản, có tài, có trình độ song khi nói trước tập thể thì sợ sệt, nhút nhát hoặc khi giao tiếp không gây được tìnhcảm, mối thân thiện với mọi người, để lại ấn tượng không tốt thì người đó khó mà thành công trong công việc.

Chính vì vậy, để sau này lớn lên các em có một nhân cách tốt, biết nói năng lễ phép, lịch sự, biết nói lời biểu cảm trong giao tiếp và mạnh dạn khi giao tiếp với mọi người xung quanh thì ngay từ các lớp đầu cấp của tiểu học chúng ta cần rèn cho học sinh kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt là điều rất quan trọng mà chúng ta cần phải thực hiện.

Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính sáng tạo, tích cực học tập của học sinh. Theo tôi môn Tiếng Việt là môn học rất cần phải tạo điềukiện cho học sinh tự giác trong luyện tập để rút kinh nghiệm, tự chiếm lĩnh kiến thức qua thực hành dưới sự chỉ dẫn, điều hành của giáo viên. Qua thực tế giảng dạy, theo bản thân nhận thấy “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2” là điều hết sức cần thiết và quan trọng.

docx 42 trang Thu Nga 14/05/2025 260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2
1 chiếc bút chì màu, 1 chai
nước uống.
HS đại diện cho từng nhóm lần lượt lên chơi trò đóng vai ở mỗi tình huống đã cho trong khoảng 1 phút.
- 2 HS đại diện cho 1 nhóm tham gia chơi: 1em đóng vai bạn gái đang xách một chiếc túi to bước đi chậm chạp và nặng nhọc; 1 em đóng vai bạn trai đến bên bạn gái và nói: “Bạn để mình xách đỡ cho nào!” rồi đỡ chiếc túi từ tay bạn gái. Bạn gái nói: “Cảm ơn bạn, bạn tốt quá !”. Bạn trai cười tươi và nói: “Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà!”.
Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, cả lớp cùng bình chọn lời nói đúng, hay. Nếu một vai nói đúng 1 câu sẽ được 1 điểm, nói đúng 2 câu sẽ được 2 điểm. Tổng số điểm của hai vai là số điểm của mỗi nhóm trong từng tình huống chơi.
Sau mỗi tình huống, giáo viên ghi điểm cho từng nhóm lên bảng lớp. Khi các nhóm đã chơi đóng vai ở tất cả các tình huống thì giáo viên cộng điểm và công bố nhóm có điểm cao nhất để khen thưởng.
*Ví dụ 5: Loại bài tập kể chuyện
Học sinh kể chuyện đã đọc, đã nghe, kể về những người xung quanh hoặc bản
thân.
Bài tập này áp dụng ở môn Tiếng Việt trong bài có nội dung kể chuyện, cần hướng dẫn học sinh có giọng kể thích hợp và diễn xuất theo vai, học sinh nắm nội dung câu chuyện định kể.
Ví dụ: Phân vai dựng lại câu chuyện.
Giáo viên chọn bài tập ở tiết Kể chuyện, yêu cầu học sinh phân vai dựng lại câu
chuyện trong SGK Tiếng việt 2.
Ví dụ: Chuyện bốn mùa (SGK Tiếng việt 2 trang 4).
Giáo viên hướng dẫn học sinh dựng lại câu chuyện, học sinh nhập vai và khi kể giọng kể và diễn xuất phải phù hợp với nhân vật. Lời dẫn trong ngoặc đơn nhằm gợi ý thái độ, hành động, cử chỉ của nhân vật.
CHUYỆN BỐN MÙA
Nhân vật: - Người dẫn truyện
Xuân
Hạ
Thu
Đông
Bà Đất
Chuẩn bị một số đồ vật cho các vai diễn xuất. Một vòng hoa cho nàng Xuân, quạt cho nàng Hạ, mâm quả cho nàng Thu, áo ẩm khăn ấm cho nàng Đông, trang phục cho bà Đất.
Cách tiến hành cho học sinh nhập vai học thuộc lời thoại, nắm vững cách thể
hiện tình cảm, thái độ, cử chỉ, giọng nói ... của từng nhân vật. Giáo viên hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật. Học sinh đóng vai và kể trong nhóm.
Đại diện các nhóm thi trình diễn trước lớp.
Các nhóm trình diễn xong, bình chọn những cá nhân và nhóm trình diễn hay để tuyên dương, khen thưởng.
Với biện pháp này bản thân thường xuyên thay đổi học sinh để đóng các vai trong từng câu chuyện. Nhờ vậy, những em nhút nhát, sợ sệt, ngại giao tiếp trước tập thể đã có sự tiến bộ, mạnh dạn trong giao tiếp.
Biện pháp:
GV cho học sinh nhận vai, học thuộc lời thoại, nắm vững yêu cầu thể hiện tình cảm, thái độ (qua ánh mắt, cử chỉ, động tác, giọng nói ) của nhân vật trong câu chuyện.
GV hướng dẫn các nhân vật tập đối thoại sao cho thuộc lời và phối hợp với nhau
một cách nhịp nhàng, tự nhiên.
GV hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật theo “kịch bản” đã chuẩn bị,
trình diễn thử với những đạo cụ và bài trí khung cảnh nêu trong kịch bản.
HS trình diễn “màn kịch ngắn” trước lớp; giáo viên cho cả lớp nhận xét, bình chọn những HS diễn xuất giỏi để biểu dương, khen thưởng.
*Ví dụ 6: Loại bài tập luyện kĩ năng hội thoại
Đây là loại bài tập học sinh tham gia trò chuyện với nhau, trả lời phỏng vấn, cùng nhau tranh luận về một đề tài theo nội dung bài học của mình, một câu có nội dung đề nghị bạn trả lời đúng đồ dùng cho mình.
Ví dụ: Đóng vai chúc mừng nhau (Đáp lời chia vui) Chuẩn bị:
3 hình vẽ (hoặc tranh ảnh) minh hoạ 3 tình huống khác nhau có xuất hiện lời
chúc mừng và lời đáp lại lời chúc mừng:
Bạn gái đội mũ, trên mũ có dòng chữ: Giải nhất viết chữ đẹp; một bạn tặng hoa
chức mừng bạn đoạt giải.
Bạn trai tay ôm quả bóng, đầu đội mũ, trên mũ có dòng chữ Đội vô địch; một bạn đang bắt tay chúc mừng bạn đại diện cho đội vô địch.
Bạn trai đang đứng trên sân khấu để nhận giải thưởng. Sau lưng bạn trai là tiêu đề cuộc thi: Thi kể chuyện đạo đức về Bác Hồ. Một bạn mang hoa lên tặng bạn trai được giải và nói lời chúc mừng.
5 chiếc mũ làm bằng dải bìa quây tròn, trên có dòng chữ Giải nhất viết chữ đẹp.
5 quả bóng có dán băng giấy trên băng giấy có ghi đội vô địch.
5 chiếc mũ làm bằng dải bì, quây tròn, trên có điểm 10 và chưc KC (kể chuyện)
Cách tiến hành:
Chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm ít nhất 6 học sinh, sao cho cứ 2 em đóng vai để thực hiện 1 tình huống được minh hoạ trong tranh.
Gợi ý: Hai học sinh đại diện cho một nhóm tham gia chơi, một học sinh đóng vai bạn đoạt giải nhất trong kỳ thi viết chữ đẹp của trường, một học sinh đóng vai bạn gái lên chúc mừng bạn đoạt giải và nói: “ Chúc mừng bạn! Chúng tớ vui lắm, chúng tớ rất tự hào về bạn!” rồi xiết chặt tay bạn đoạt giải. Bạn đoạt giải đáp: “ Mình hạnh phúc lắm! Mình cảm ơn các bạn!”.
Cứ tiếp tục như vậy, các nhóm học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình huống đầu cho đến tình huống cuối như đã gợi ý. Khi hai học sinh trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm lại cử hai học sinh chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở cả ba tình huống.
GV làm trọng tài, 2 học sinh giúp giáo viên làm việc.
4. Phương pháp kết hợp với phụ huynh học sinh
Ngoài việc rèn luyện cho các em trong các tiết học luyện nói của môn Tiếng Việt trên lớp,bản thân thường xuyên gặp gỡ phụ huynh học sinh để trao đổi những tiến bộ
và những hạn chế của các em. Bàn bạc tìm ra những biện pháp thích hợp để phụ huynh bày vẻ và rèn cho học sinh biết giao tiếp lịch sự, đúng mực khi ở nhà. Biện pháp này được phụ huynh đồng tình ủng hộ và đem lại hiệu quả rất cao.
IV/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Kết quả
Trong năm học này, bằng các biện pháp nói trên, bản thân đã tổ chức cho học sinh trong lớp thực hiện tốt những yêu cầu luyện nói đã đề ra, làm cho các buổi học đạt hiệu quả ngày càng cao hơn. Những học sinh chưa mạnh dạn, thiếu tự tin khi giao tiếp với mọi người và khi nói trước tập thể đông người ngày một giảm.
Từ những học sinh khả năng nói chưa tốt, bây giờ các em đã có nhiều tiến bộ về mọi mặt. Kết quả học tập các môn có sự thay đổi rõ rệt. Nhiều học sinh đã chủ động, tích cực, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài. Việc học bài và chuẩn bị bài ở nhà được các em thực hiện đầy đủ.
Trong tất cả các giờ học và giờ luyện nói trên lớp học sinh đã biết trả lời các câu
hỏi của bạn mình và của giáo viên với nội dung đầy đủ, trọn vẹn. Các em biết trả lời
một cách rõ ràng, trọn câu, trôi chảy, mạch lạc. Học sinh tự tin, cởi mở khi giao tiếp với bạn bè trong lớp, trong trường, không còn rụt rè hay nhút nhát và trả lời không đủ ý như lúc đầu năm học.
Đa số học sinh trong lớp 2 đến thời điểm này đều có khả năng giao tiếp với bạn bè ở lớp, ở trường và mọi người xung quanh rất tốt. Cụ thể như: các em đều biết sử dụng lời nói biểu cảm khi giao tiếp để bày tỏ lịch sự, lễ phép của mình. Các em biết giao tiếp lễ phép, lịch sự với thầy cô giáo, các cô chú công nhân viên trong nhà trường, biết cư xử đúng mực với bạn bè. Các em đã nhận thức được là phải lễ phép với người trên, biết nói lời cảm ơn, xin lỗi đúng nơi, đúng chỗ, 
Bên cạnh sự tiến bộ về mặt học tập, các chuẩn mực, hành vi đạo đức thì học sinh trong lớp bản thân chủ nhiệm luôn tích cực, tự giác tham gia các hoạt động ngoại khóa của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, của nhà trường. Khi tham gia vào các hoạt động này đã giúp cho các em mạnh dạn, tự tin hơn rất nhiều khi giao tiếp với mọi người xung quanh, khi nói trước tập thể đông người. đặc biệt Hoạt động Sao nhi đồng của khối 2 đạt nhiều thành tích tốt.
* Các em đã tích cực tham gia các hội thi như:
- Hội thi “ Tiếng hát chim Sơn ca” đạt 1 giải tập thể và một giải cá nhân ( Một
giải ba).
Hội thi ‘’Vở sạch chữ đẹp’’ có 12 em đạt cấp trường, 1 em đạt giải	nhì cấp huyện.
Trong đêm văn nghệ “ Mừng Đảng – Mừng Xuân” được chọn diễn hai tiết mục.
Căn cứ vào kết quả học tập của học sinh, bản thân có kết quả xếp loại khả năng nói và giao tiếp của học sinh khối 2 như sau:
Bảng thống kê khả năng nói - giao tiếp của học sinh khối 2 năm học 2010-2011
Lớp

Sĩ số
Khả năng nói
Nói Tốt
Tạm được
Chưa được
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
2A1
30
10
33,3%
9
30%
11
36,7%
2A2
29
7
24,1%
10
34,5%
12
41,4%
2A3
30
9
30%
12
40%
9
30%

Bảng thống kê khả năng nói - giao tiếp của học sinh khối 2 năm học 2011-2012
Khả năng nói

Lớp
Sĩ số
Nói Tốt
Tạm được
Chưa được
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
2A1
31
11
35,4%
10
32,3%
10
32,3%
2A2
30
9
30%
11
36,7%
10
33,3%
2A3
30
10
33,3%
14
46,7%
6
20%

Bảng thống kê khả năng nói - giao tiếp của học sinh khối 2 năm học 2012-2013
( đến cuối học kì 1)
Lớp

Sĩ số
Khả năng nói
Nói Tốt
Tạm được
Chưa được
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
2A1
31
13
41,9%
10
32,3%
8
25,8%
2A2
30
15
50%
12
40%
3
10%
2A3
31
11
35,5%
16
51,6%
4
12,9%

Tóm lại, với kết quả hai mặt giáo dục như đã nêu trên, bản thân tin tưởng rằng các em học sinh khối 2 ở năm học 2012-2013 này sẽ có đủ điều kiện lên lớp 3 để tiếp tục học tập và rèn luyện, trau dồi các kĩ năng luyện nói ngày một tốt hơn. Các em sẽ đủ tự tin khi tiếp cận và lĩnh hội nội dung, chương trình sách giáo khoa mới một cách thuận lợi, dễ dàng.
Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình dạy và áp dụng những kinh nghiệm trên nhằm góp phần hình thành nên những kĩ năng nói cho học sinh ở lớp 2, bản thân cũng đã đọc kỹ và tìm hiểu nội dung chương trình môn học Tiếng Việt của khối, lớp. Điều này rất có ích để bản thân rèn kĩ năng nói tốt hơn cho học sinh.	Bên cạnh đó bản thân cũng rút ra được một vài kinh nghiệm trong việc dạy học, tổ chức các hoạt động trong việc hình thành những thói quen nói lưu loát cho học sinh tiểu học. Cụ thể là:
Người giáo viên phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, kiên trì, nhẫn nại, nhiệt tình trong công tác, không ngại khó ngại khổ.
Cần nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình, chuẩn bị bài giảng chu đáo để tiết học thêm phong phú, đa dạng, sôi nổi, các em tiếp thu bài tốt hơn như thế kiến thức sẽ khắc sâu hơn.
Tinh giản các lý thuyết rườm rà, tăng cường thực hành sắm vai, xử lý các tình huống.
Kết hợp tốt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học làm cho tiết học trở nên nhẹ nhàng, tự nhiên đạt hiệu quả cao.
Tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các tiết dạy ngoại khoá, các buổi sinh hoạt tập thể với nhiều chủ đề, nội dung phong phú, đa dạng về hình thức tổ chức để cuốn hút các em tham gia.
Liên hệ thực tế, thực hành vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày và luyện tập lâu dài để trở thành những thói quen tích cực và bền vững.
C/ KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết luận
Khi trẻ bước chân đến trường chúng ta không chỉ dạy cho trẻ văn hoá mà điều quan trọng đi đôi với dạy văn hoá là chúng ta phải cần dạy cho trẻ có một nhân cách tốt. Để sau này trở thành người có tài, có đức cho xã hội.
Do vậy ngay từ đầu cấp tiểu học chúng ta phải xây dựng cho trẻ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ, yêu quý anh chị, thương yêu em nhỏ, lễ phép với người lớn tuổi, kính trọng thầy cô giáo, giúp đỡ bạn bè biết nói năng lễ phép, lịch sự khi giao tiếp, ...
Rèn cho học sinh những kiến thức nêu trên bằng nhiều hình thức khác nhau, từ
lời nói, cử chỉ, thái độ và việc làm của học sinh.
Để đạt được kết quả cao trong quá trình thực hiện sáng kiến đòi hỏi người giáo viên phải hết sức nhiệt tình, tận tâm, kiên trì, chịu khó, không ngừng học hỏi, nghiên cứu tài liệu giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu ham học hỏi của học sinh, uốn nắn cho các em từ những sai sót nhỏ để các em có sự tiến bộ dần. Giáo viên tổ chức khen thưởng, tuyên dương kịp thời cho những học sinh tiến bộ.
Bên cạnh sự nhiệt tình giáo dục của giáo viên trên lớp cần có sự quan tâm của
cha mẹ học sinh với việc học tập và giao tiếp của con em mình. Gia đình là một động
lực mạnh mẽ giúp học sinh trở thành người con ngoan trò giỏi là người có ích cho gia đình, nhà trường và xã hội.
Trong nhiều năm qua, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy,bản thân nhận thấy việc đổi mới chương trình SGK là một việc làm vô cùng hợp lý và đáng hoan nghênh. Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 mới đã thực sự quan tâm, đưa ra những chủ đề, những bài tập thực hành thực sự phù hợp cho việc rèn kỹ năng “nói” cho học sinh lớp 2.
Bên cạnh đó, môn Tiếng Việt ở tiểu học có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học. Nhu cầu học tập của học sinh ngày càng cao, giáo viên phải không ngừng học hỏi, nghiên cứu tài liệu giáo dục nhằm thoả mãn nhu cầu ham học hỏi của học sinh. Bên cạnh đó, sự quan tâm của cha mẹ học sinh đối với việc học tập của con em mình sẽ chính là động lực mạnh mẽ nhất giúp học sinh thực sự trở thành những con ngoan, trò giỏi, là những công dân văn minh lịch sự, có ích cho gia đình, nhà trường và xã hội.
Khuyến nghị
Trước thực tế giảng dạy trong năm học vừa qua, với tư cách là một giáo viên dạy tiểu học, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất sau:
Đối với gia đình
Từ khi trẻ bập bẹ biết nói, những người lớn tuổi trong gia đình cần phải luôn lưu tâm uốn nắn lời ăn tiếng nói cho con em mình. Các cụ đã dạy “Uốn cây từ thuở còn non”. Không những thế người lớn còn là tấm gương cho con trẻ noi theo.
Đối với nhà trường
Khi trẻ bắt đầu đến trường, gia đình, nhà trường và xã hội cần có sự phối hợp nhịp nhàng để giáo dục trẻ những thói quen trong giao tiếp, để trẻ mạnh dạn, tự tin, thể hiện tác phong tư cách đạo đức của con người có văn hoá.
Bên cạnh đó, mỗi giáo viên cần dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu giảng dạy, tăng cường hiệu quả của các giờ sinh hoạt chuyên môn để đưa ra những bài giảng sinh động, hấp dẫn. Ngôn ngữ của giáo viên phải chuẩn mực chính xác trong
sáng vì thầy cô chính là tấm gương sáng để các em học hỏi, noi theo. Xin trân trọng cảm ơn.
Thiện Hưng ngày..tháng.năm 2013 Người thực hiện đề tài
Võ Thị Quỳnh Như
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đoàn Thiện Thuật , Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2003.
Lê Phương Nga – Đỗ Xuân Thảo – Lê Hữu Tỉnh, Phương pháp dạy học Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000.
Lê Trung Hoa, Lỗi chính tả và cách khắc phục, Nxb Khoa học xã hội, Tp Hồ
Chí Minh, 2005.
Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Tiếng Việt 2 Tập một, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Tiếng Việt 2 Tập một, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2009.
Nguyễn Như Ý, Từ điển chính tả học sinh, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2009.
Trần Trọng Kim, Việt Nam văn phạm, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2007.
MỤC LỤC
Trang Lời cảm ơn	3
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ	4
Lí do chọn đề tài	4
1/ Cơ sở lí luận	4
2/ cơ sở thực tiễn	4
Mục đích nghiên cứu	5
Phạm vi nghiên cứu	5
Phương pháp nghiên cứu	5
Khách thể và đối tượng nghiên cứu	6
Nhiệm vụ nghiên cứu	6
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ	7
I/ Thực trạng của vấn đề	7
Đặc điểm tâm lí học sinh	7
Đặc điểm phát âm của học sinh	7
II/ Cơ sở lí luận	8
III/ CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN	9
Phương pháp quan sát	9
Phương pháp phân tích tổng hợp	9
Phương pháp thực hành luyện tập	11
Phương pháp kết hợp với phụ huynh học sinh	20
IV/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC	20
Kết quả	20
Bài học kinh nghiệm	23
C/ KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ	25
Kết luận	25
Khuyến nghị	26
Tài liệu tham khảo	27
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TỔ KHỐI
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
NHÀ TRƯỜNG
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
PHÒNG GIÁO DỤC
....

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_noi_trong_gio_day_tieng_vi.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2.pdf