Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Lớp 3
Chính tả là một trong những phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học. Phân môn này dạy cho học sinh tri thức và kĩ năng chính tả, phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ ở dạng viết và hoạt động giao tiếp. Chữ viết là kí hiệu bằng hình ảnh thị giác ghi lại tiếng nói. Chính tả thực hiện những quy ước của xã hội, đề phòng, ngăn ngừa sự vận dụng tùy tiện, vi phạm các quy ước. Môn này còn cung cấp cho học sinh những quy tắc sử dụng hệ thống chữ viết, làm cho học sinh nắm vững các quy tắc, hình thành kĩ năng viết thông thạo Tiếng Việt. Đây là một phân môn cần thiết thể hiện nét chữ nết người. Môn học này còn rèn luyện cách phát âm đúng, củng cố nghĩa từ, góp phần phát triển một số thao tác tư duy cho học sinh. Bồi dưỡng cho học sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong công việc như: cẩn thận, chính xác, tính thẩm mĩ, lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm.
Với mong muốn hạn chế đến mức tối đa việc học sinh viết sai chính tả và học tốt các môn học khác ở lớp, bản thân tôi cố gắng sử dụng nhiều biện pháp, nhiều hình thức để giảng dạy nhằm giúp học sinh hình thành, phát triển và hoàn thiện kĩ năng viết đúng Tiếng Việt chuẩn mực theo hướng “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”. Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh là một công việc mang tính lâu dài và liên tục, rèn cho các em ý thức, thói quen và hoàn thiện kĩ năng viết đúng chính tả nhằm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt. Việc học sinh luyện kĩ năng viết đúng chính tả không chỉ để học tốt môn Chính tả mà còn dùng nó để phục vụ cho các môn học khác. Dạy Chính tả là rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết thành thạo chữ Tiếng Việt theo các chuẩn chính tả và làm bài tập. Qua đó rèn các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, cung cấp cho học sinh vốn từ, vốn hiểu biết về các mảng khác nhau của đời sống.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Lớp 3

vần có âm đệm, còn n thì rất ít xuất hiện. Ví dụ: loài, lũy, loa, 6. Mẹo phân biệt i và y : Từ những năm 1984, Nhà nước đã có quy định về các trường hợp viết i và y như sau: - Nếu không có sự thay đổi về âm hay nghĩa (trừ trường hợp y đi sau âm đệm) thì đồng loạt thay y bằng i. Ví dụ: hi sinh, lí luận, thẩm mĩ, - Nếu âm đứng một mình hay ở đầu tiếng thì viết bằng y, trừ vài trường hợp đã theo thói quen cũ. Ví dụ: y tế, yêu thương, yên ổn, 7. Mẹo phân biệt các vần dễ lẫn lộn: + Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: Gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh, + Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là từ tượng thanh: oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rộn ràng, ùng oàng, quang quác, phằng phằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, lẻng kẻng, đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch, Nhờ có bảng tổng hợp các quy tắc và mẹo luật chính tả này mà học sinh lớp tôi trở nên sôi nổi học tập, em nào cũng thuộc những câu thơ về mẹo luật chính tả, lỗi chính tả đã giảm đi đáng kể. Nhưng chỉ nắm các quy tắc và các“ mẹo” chính tả thì vẫn chưa khắc phục được triệt để các lỗi chính tả. Vì vậy, khi dạy chính tả, tôi phỉa phối hợp vận dụng cả quy tắc “Kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không ý thức”. Phương pháp có ý thức vẫn được coi là chủ yếu như ghi nhớ các quy tắc, các mẹo chính tả,Nhưng trong một số trường hợp ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, không gắn với một quy luật, quy tắc nào thì tôi dạy các em cách “nhớ từng chữ một” (cách không óc ý thức), đây cũng là giải pháp hữu hiệu, hợp lí. Bởi vì, phần lớn những người viết đúng chính tả hiện nay đều dựa vào cách nhớ từng từ một. Những từ dễ viết sai này chiếm tỉ lệ không nhiều, do đó học sinh có thể ghi nhớ được. Chẳng hạn như: rượu, hươu, khướu, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, xoong, quần xoóc, xe goòng, hoặc từ những chỉ viết ngã chứ không viết hỏi, từ để chỉ viết hỏi chứ không viết ngã, từ kể chỉ viết hỏi chứ không viết ngã, * Biện pháp 9: Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ Việc nắm nghĩa từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp học sinh viết đúng chính tả. Đó là đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt, nó sẽ giúp học sinh giải quyết được những lỗi chính tả do ảnh hưởng cách phát âm theo phương ngữ. Vì vậy có thể nói rằng chính tả tiếng Việt còn gọi là chính tả ngữ nghĩa. Khi dạy chính tả hoặc dạy các phân môn học khác của môn Tiếng Việt, cần lưu ý học sinh: Hiểu nghĩa của từ, phân biệt từ này với từ khác để các em ghi nhớ cách viết của mỗi từ. Ví dụ: Nếu tôi đọc một từ có hình thức ngữ âm là “dành” thì học sinh sẽ lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu tôi đặt nó vào một ngữ cảnh hay gắn cho nó một nghĩa xác định như : Em để dành tiền mua sách truyện Thiếu nhi./ Trong trận đấu bóng đá ngày mai, các em phải giành lấy chiến thắng./ Các em đọc rõ ràng, rành mạch để cả lớp cùng nghe. - Khi đọc chính tả cho học sinh viết, tôi đọc từng cụm từ (diễn đạt một ý nhỏ); tôi luôn nhắc nhở các em chú ý lắng nghe, hiểu nghĩa từ để viết đúng chính tả. - Khi học sinh sửa lỗi trong bài chính tả, yêu cầu các em ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại cho đúng; không nên chỉ ghi một tiếng sai rồi sửa lại, sửa như vậy các em sẽ không ghi nhớ các từ đã viết sai. - Trong các giờ dạy Tập đọc, học sinh tìm cách ngắt giọng ở những câu dài, ngắt nghỉ đúng các dấu câu, giải nghĩa các từ khó. Biện pháp 10: Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả: Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để các em dễ nhớ: Bài tập trắc nghiệm: * Khoanh tròn vào những chữ cái đặt trước những chữ viết đúng chính tả: A. Cái bàn B. Cái bàn C. Khuôn mặc D. Khuôn mặt E. Nghỉ ngợi G. Nghĩ ngợi * Điền vào ô trống chữ Đ trước những chữ viết đúng chính tả, chữ S trước những chữ viết sai chính tả: Giặc quần áo Giặt quần áo Gầy guộc Gầy guột Kiêu căn Kiêu căng * Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành từ viết đúng chính tả A B Vắng tắt Vắn mặt Tủi trẻ Tuổi thân Bài tập lựa chọn: Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau: - Cháu bé đang uống ..... (sửa, sữa) - Đôi ..... này đế rất .... (giày, dày) - Bạn em đi chăn ..... bắt được nhiều ..... ch ấu (châu, trâu) Bài tập phát hiện: Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng: - Ông ngồi đây chờ xe být để đến bệnh viện. - Đàn siếu đang sãi cánh trên cao. - Muồi hương đưa theo chiều gió ngào ngạc. - Sung quanh hòn đá thần người ta cheo những cành hoa đang bằng che. Bài tập điền khuyết: Điền vào chỗ trống: s/x: ...ung phong, cây ...ào, ...ản phẩm, ngày ...ưa. l/n: ...ông dân, ...àm việc, ..ền nhà, thung ...ũng. an/ang: đ`... hoàng, đ`... ông, s.. loáng, b`... ghế. ưi/ươi: khung c..., s... ấm, g.. thư, t... cây. Bài tập tìm từ: . Tìm từ ngữ chứa tiếng bắt đầu bằng ch hoặc tr có nghĩa như sau: Loại cây có quả kết thành nải, thành buồng. Làm cho người khỏi bệnh. - Cùng nghĩa với nhìn. . Tìm từ chỉ hoạt động: Chứa tiếng bắt đầu bằng r. - Chứa tiếng bắt đầu bằng d. Chứa tiếng bắt đầu bằng gi. - Chứa tiếng có vần ươt. - Chứa tiếng có vần ươc. . Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có nghĩa như sau: - Trái nghĩa với đóng. - Cùng nghĩa với vỡ. - Bộ phận ỡ trên mặt dùng để thở và ngửi. Bài tập phân biệt: . Đặt câu để phân biệt từng cặp từ như: căn – căng, vắn – vắng, xâu – sâu. . Bài tập giải câu đố: Điền vào chỗ trống iên hoặc iêng rồi giải câu đố: Trên trời có giếng nước trong Con k... chẳng lọt, con ong chẳng vào. (Là quả gì?) Điền dấu hỏi hay dấu ngã rồi giải câu đố: Tên nghe nặng trịch Lòng dạ thẳng băng Vành tai thợ mộc nằm ngang Anh đi học vẽ, sẵn sàng đi theo. (Là cái gì?) * Biện pháp 11: Tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học tập Học sinh tiểu học rất thích được khen thưởng, tuyên dương. Có thể, có em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học chính tả nhưng các em rất thích được thầy cô, cha mẹ khen. Nhờ những lời khen đó mà các em tích cực, cố gắng, tự giác hơn trong học tập. Hiểu đặc điểm tâm lí của các em như vậy nên tôi luôn động viên, khuyến khích các em. Tôi luôn theo dõi sát quá trình học tập của học sinh, dù chỉ một tiến bộ nhỏ của các em về thái độ học tập cũng như kết quả học tập. - Đối với những học sinh chữ viết đẹp, bài viết trình bày cẩn thận, ít sai chính tả, tôi thường ghi nhận xét vào vở và biểu dương các em trước lớp. Nửa học kì, tôi chọn ra 5 em có tiến bộ nhất để khen thưởng. Phần thưởng chỉ là hai cuốn vở hoặc một cây bút viết chữ đẹp,Phần thưởng tuy nhỏ nhưng các em rất vui, rất hãnh diện. IV. Thực nghiệm sư phạm Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm 1 tiết chính tả ở lớp 3A2, trường Tiểu học Lĩnh Nam. Tuần 29. Bài: Nghe - viết: Buổi học thể dục Kết quả thực nghiệm: Trong quá trình dạy thực nghiệm, học sinh lắng nghe, tích cực học tập, tập trung khi viết bài. Kết quả như sau: Tổng số HS Viết đúng, viết đẹp Viết đúng, chưa đẹp Viết đẹp nhưng chưa đúng Viết chưa đúng, chưa đẹp 53 34 12 3 4 So sánh với kết quả đầu năm học, tôi thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt trong việc viết đẹp, viết đúng chính tả. Thời gian kiểm tra Tổng số HS Viết đúng, viết đẹp Viết đúng, chưa đẹp Viết đẹp nhưng chưa đúng Viết chưa đúng, chưa đẹp Đầu năm 53 5 14 16 24 Sau tiết dạy 53 32 10 5 6 V. Kết quả đạt được: Trong quá trình giảng dạy, với việc áp dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy học sinh có những tiến bộ rõ rệt trong việc nắm bắt các quy luật chính tả, đặc biệt là các tiếng có phụ âm đầu l/n, gi /r/d, tr/ch, s/x và thanh hỏi, thanh ngã so với đầu năm tỉ lệ viết đúng đạt trên 90%. Ngoài ra, các em còn thể hiện sự viết đúng, viết đẹp trong bài chính tả nói riêng và các bài tập của môn học khác nói chung. Trong tiết học chính tả, không khí lớp học trở nên hào hứng, sôi nổi, các em học sinh không còn rụt rè e ngại mà đã có sự tự tin, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài. Kết quả này được thể hiện rõ trong các đợt kiểm tra định kì của môn chính tả trong lớp tôi giảng dạy như sau: NĂM HỌC: 2018-2019 Thời gian kiểm tra Tổng số HS Viết đúng, viết đẹp Viết đúng, chưa đẹp Viết đẹp nhưng chưa đúng Viết chưa đúng, chưa đẹp Giữa kì I 53 10 15 12 16 Cuối kì I 53 18 12 10 13 Giữa kì II 53 31 10 5 7 Tuy việc “Giúp học sinh học tốt phân môn chính tả” cần một quá trình lâu dài, xuyên suốt, song với kết quả đạt được như trên tôi vẫn cảm thấy rất vui vì công việc mình làm bước đầu đã có hiệu quả. C. KẾT LUẬN I. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm đối với công việc giảng dạy Trong sự nghiệp giáo dục, dù ai đã và đang công tác cũng chung nhau một lòng mong mỏi là làm sao, làm thế nào cho học sinh của mình viết đẹp và viết đúng chính tả, góp phần làm rạng danh tiếng Việt, sử dụng đúng chính tả có tầm quan trọng cho cả quốc gia và là một yêu cầu tất yếu của xã hội hiện tại. Qua đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh học lớp 3 học tốt phân môn chính tả” tôi đã tìm hiểu được các cơ sở lí luận, xác định được chất lượng chính tả của học sinh trường tiểu học, từ đó đề ra những biện pháp cần thiết. Đây là nhiệm vụ của mỗi người giáo viên nói chung và của giáo viên trường tiểu học nói riêng. Nhiệm vụ này không chỉ tiến hành trong một thời gian ngắn mà cho ta kết quả tốt ngay được, nó phải được tiến hành trong một thời gian dài với sự đồng bộ của các khối lớp. Tuy nhiên, nhiệm vụ này có hoàn thành triệt để hay không chúng tôi cũng cần có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành có liên quan. II. Nguyên nhân thành công Tôi có được thành công trong dạy học phân môn Chính tả là do các nguyên nhân chính sau đây: 1. Tôi hiểu học sinh, nắm được đặc điểm tâm lí và sở thích của từng em. 2. Tôi vận dụng những kiến thức về ngữ âm học Tiếng Việt vào việc phân loại lỗi chính tả, tìm hiểu đặc điểm của từng loại lỗi, xác định được “trọng điểm chính tả” cần dạy, và xây dựng được các quy tắc chính tả, các” mẹo” chính tả, giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng. Tôi vận dụng linh hoạt các nguyên tắc cơ bản trong dạy học chính tả. 3. Tôi đã mạnh dạn thay đổi nội dung và yêu cầu các bài tập trong sách giáo khoa phù hợp với yêu cầu. 4. Tôi nghiên cứu thêm các tài liệu khác, tìm đọc các bài diễn đàn về dạy chính tả trong cuốn “Sách Giáo dục &Thư viện trường học” và đã bắt gặp được những ý tưởng của đồng nghiệp trùng với ý tưởng của mình, 5. Tôi luôn ân cần chỉ bảo, động viên khích lệ học sinh làm cho các em tự tin, hứng thú, tạo ra động lực thúc đẩy sự tiến bộ của các em. Bên cạnh sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được sự ủng hộ của các bậc phụ huynh. Sự tiến bộ và chăm ngoan của các em đã làm tôi thêm vui, thêm phấn chấn và tự tin vào thành công của mình. III. Bài học kinh nghiệm - Dạy chính tả là một hoạt động trí tuệ khó khăn và phức tạp. Vì vậy, điều không thể thiếu trong quá trình dạy chính tả là phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân gây lỗi, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết. Các biện pháp cần khắc phục đó là: luyện phát âm; phân tích; giải nghĩa từ; ghi nhớ mẹo luật chính tả; làm các bài tập chính tả. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kì. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì chắc chắn không thành công. - Giáo viên cần hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai sót. - Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra, từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn. - Giáo viên phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ tay nghề. Có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có thể giúp học sinh chữa lỗi và khắc phục lỗi một cách có hiệu quả. - Muốn học sinh viết đúng chính tả thì giáo viên phải phát âm chuẩn, viết đúng chính tả trong giao tiếp cũng như trong giảng dạy, giáo viên phải là người có lòng tâm huyết với nghề nghiệp, tận tụy với học sinh. - Giáo viên cần căn cứ vào đặc điểm phát âm và thực tế viết chính tả của mỗi lớp, mỗi học sinh mình dạy mà có phương pháp dạy cho phù hợp. IV. Khuyến nghị Để việc rèn cho học sinh viết đúng chính tả, việc dạy học môn Chính tả đạt kết quả tốt, có hiệu quả cao, tôi xin khuyến nghị với các cấp có thẩm quyền một số nội dung sau: 1. Sở Giáo dục, Phòng Giáo dục mở các chuyên đề, các cuộc hội thảo về việc rèn cho học sinh đọc đúng, viết đúng chính tả để cán bộ quản lí, giáo viên có điều kiện trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau. 2. Các nhà nghiên cứu viết, ban hành nhiều tài liệu, tư liệu chuẩn phục vụ, hỗ trợ cho việc dạy môn Chính tả. 3. Nhà trường tiếp tục duy trì nếp giữ vở sạch, viết chữ đẹp trong học sinh. Tổ chức hội thảo chuyên sâu giúp giáo viên khái quát hơn về phân biệt, rèn viết đúng chính tả cho học sinh.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_viet_dung_chinh_ta_cho_hoc.docx