Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói thông qua môn Tiếng Việt cho học sinh Lớp 3 ở trường Tiểu học Ngọc Lâm

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự phát triển Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo , tự lực, tự cường. Nhu cầu này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương trình bậc Tiểu học một cách phù hợp. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “ giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.

Kĩ năng nói là một trong những kĩ năng quan trọng đối với mỗi con người nói chung, với các em học sinh nói riêng giúp mỗi cá nhân trao đổi được thông tin với nhau và tiếp nhận sự phản hồi lại mỗi thông tin đó. Chỉ khi có kĩ năng nói tốt, các em mới có thể diễn đạt, truyền tải được cho người nghe, người đọc hiểu ý kiến của bản thân, cũng như truyền đạt được hết những suy nghĩ, ý tưởng của mình một cách rõ ràng, mạch lạc nhất, để thu hút, lôi cuốn mọi người chú ý và tiếp nhận mình.

Muốn việc nói trở thànhmột kĩ năng thế mạnh thì vốn từ ngữ phải được mở rộng, phong phú. Vốn từ ngữ chính là kho tàng tri thức cần được tích lũy, khai thác, chiếm lĩnh và đưa ra vận dụng một cách thường xuyên, linh hoạt.

Chính vì vậy mà các em học sinh bên cạnh việc tiếp thu bài học mỗi ngày trên lớp còn cần được thườngxuyên thực hành luyện nói trong tất cả các tiết học của Tiếng Việt. Nhờ đó khả năng giao tiếp của các em ngày càng được nâng cao và hoàn thiện hơn, rèn cho các em nói sao cho trôi chảy, mạch lạc, lời nói thể hiện được tình cảm, lịch sự, đầy đủ ngữ nghĩa.

docx 21 trang Thu Nga 19/03/2025 280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói thông qua môn Tiếng Việt cho học sinh Lớp 3 ở trường Tiểu học Ngọc Lâm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói thông qua môn Tiếng Việt cho học sinh Lớp 3 ở trường Tiểu học Ngọc Lâm

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói thông qua môn Tiếng Việt cho học sinh Lớp 3 ở trường Tiểu học Ngọc Lâm
ói không phải là bài Tập Làm Văn viết được nói lên. Tuy nhiên cũng không nên tuyệt đối hoá ranh giới giữa bài nói và bài viết.
Các bài tập giúp học sinh ý thức rõ hơn về tính liên kết giữa các câu, các ý trong đoạn văn. Từ đó các em biết vận dụng để viết các đoạn văn, trong đó các câu, các ý được trình bày mạch lạc, có sự sắp xếp hợp lý. Hay như các bài tập nói lời đáp cho các tình huống: xin lỗi, cảm ơn, đồng ý cũng là một quá trình vận dụng kiến thức học vào giao tiếp đời sống hàng ngảy. Các con học sinh có cơ hội được thể hiện những chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử tình huống, từ đó tăng thêm sự tự tin, tự nhiên, mạnh dạn bày tỏ.
Tập Làm Văn nói rất có ích cho người học khi họ bước vào cuộc sống hoặc khi học tiếp tục lên các cấp học trên. Khả năng độc thoại theo một đề tài là khả năng mỗi người thường gặp trong cuộc sống ( Phát biểu về một đề tài trong cuộc hop, thảo luận, tranh luận..) Nếu có khả năng độc thoại tốt, người trình bày sẽ tự tin và mạnh dạn làm việc.
Biện pháp thứ ba: Thực hành luyện tập qua bài tập.
Loại bài tập tình huống.
Đây là loại bài tập để luyện tập các nghi thức lời nói và phát triển ngôn ngữ nói. Chương trình sách giáo khoa mới đặc biệt đã tạo điều kiện cho học sinh lớp 3 được thực hành rất nhiều loại bài tập này. Theo từng chủ điểm của bài học, học sinh được tham gia chơi đóng vai để luyện tập các nghi thức lời nói ( nói theo chủ điểm, mở rộng vốn từ,). Hoạt động này là một cách luyện tập phát triển ngôn ngữ qua hình thức vừa chơi vừa học, vừa phát triển ngôn ngữ nói, vừa giáo dục tác phong văn minh, lịch sự. Với loại bài tập này hình thức tổ chức lớp học sẽ thay đổi, không còn tính chất “ cổ điển”. Chương trình Tiếng Việt tiểu học mới chú trọng đến loại bài tập tình huống để học các nghi thức lời nói và phát triển khẩu ngữ.
Cách tiến hành:
Trước hết để giờ luyện nói đạt kết quả tốt, giáo viên cần dành thời gian nghiên cứu nội dung của bài luyện nói để đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Với từng nội dung của bài luyện nói, giáo viên phải tìm tòi, sáng tạo đưa ra những tiểu phẩm ngắn gọn phù hợp với nội dung bài để học sinh tập sắm vai thể hiện ngôn ngữ của bản thân thật tự nhiên, trong sáng 
Ví dụ: Trò chơi: Tìm hiểu tính cách của nhân vật Mục đích:
Dùng khi dạy bài: Cóc kiện trời
Giúp học sinh nói được về những biểu hiện của tính cách nhân vật Đồ dùng dạy học:
Phiếu học tập in sẵn đề bài
Đề bài: Tìm những chi tiết trong bài tập đọc về tính cách các nhân vật trong câu chuyện.

Thái độ trước khi cuộc
chiến diễn ra
Thái
chiến
độ
sau
khi
giao
Cóc


Trời



Cách tính điểm:
Nói đúng mỗi câu và lưu loát : được 5 điểm
Nói đúng mỗi câu nhưng chưa lưu loát: được 3 điểm
Tôi tính điểm cho từng đội và tuyên bố đội thắng cuộc và phần thưởng là một chiếc bút chì.
Loại bài tập luyện kĩ năng hội thoại
Đây là loại bài tập học sinh tham gia trò chuyện với nhau, trả lời phỏng vấn, cùng nhau tranh luận về một đề tài theo nội dung bài học của mình, một câu có nội dung đề nghị bạn trả lời đúng.
Ví dụ: Kể về Ngày gặp lại ( Tiếng Việt lớp 3 – Tập 1) Mục đích:
Giúp học sinh nói được, nói hay những câu chuyện mà các em đã chia sẻ với nhau trong ngày đầu tiên gặp lại sau kì nghỉ hè vừa qua.
Chuẩn bị:
Phiểu học tập in sẵn đề bài.
Đề bài: Các nhóm tập làm phóng viên phỏng vấn bạn sau một kì nghỉ hè dài theo các câu hỏi gợi ý:
+ Em đã có những trải nghiệm gì trong mùa hè?
+ Kể về điều em nhớ nhất trong kì nghỉ hè?
+ Mùa hè của em năm nay có gì khác với mùa hè năm ngoái?
Cho học sinh chia thành các nhóm tập làm phỏng vấn, sau đó cho các nhóm lên thi đua trình bày
Cách tính điểm”
Sau mỗi lần các nhóm trình bày, cho các nhóm khác nhận xét, bổ sung
Cuối cùng cho cả lớp chọn ra nhóm diễn đạt hay nhất.
Tuyên bố nhóm đạt giải và trao thưởng.
Biện pháp thứ tư: Rèn kỹ năng quan sát - Tìm ý
Học sinh lớp 3 chưa có thói quen quan sát toàn diện một đối tượng nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên. Vì vậy quan sát nắm bắt được vấn đề,
tổng hợp được thông tin bằng nhiều hình thức: quan sát trực tiếp hoặc bằng hệ thống câu hỏi gợi, đặt mục tiêu học sinh quan sát bằng nhiều giác quan sau đó sẽ tìm được nhiều ý và dễ dàng làm tốt các bài. Quan sát để tìm ý và tìm từ thường không tách rời nhau, có ý rồi, phải tìm được từ thích hợp để diễn tả ý đó cho đúng, hay. Giáo viên coi trọng việc bồi dưỡng kỹ năng quan sát, tìm ý sẽ giúp học sinh phát huy trí tưởng tượng sáng tạo. Giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày, thể hiện ý kiến bản thân trước lớp. Đối với học sinh thể hiện: phải vận dụng toàn bộ khả năng, vốn từ, câu, cách diễn đạt cho bạn học và giáo viên của mình hiểu, cảm nhận được ý tứ muốn thể hiện của mình. Đối với học sinh nghe: nắm được nội dung, từ ngữ, cách diễn đạt, kiểu câu, từ loại bạn sử dụng, so sánh đối chiếu với văn bản của mình, của bạn khác, đưa ra những đánh giá, nhận xét đúng với khả năng của bản thân, với những kiến thức bản thân tiếp thu, tích lũy được. Quá trình này một lần nữa tác động đến khả năng tư duy, vận dụng vốn từ ngữ và kĩ năng đưa ra ý kiến của học sinh.
Biện pháp thứ năm: Rèn kỹ năng nói
Kỹ năng nói là phát âm đúng, dùng từ ngữ chính xác, đặt câu đúng quy tắc ngữ pháp, sắp xếp các ý mạch lạc, truyền tải đến người nghe đúng, đủ và rõ ràng các nội dung muốn nói. Kỹ năng nói còn yêu cầu học sinh biết dùng giọng nói và điệu bộ để tăng thêm sức diễn cảm của lời nói.
Cần tạo ra cho không khí lớp học một khí thế hào hứng, sôi nổi và phấn khởi, thu hút được học sinh thấy thích thú, hứng khởi và mong muốn được tìm hiểu. Giáo viên chú trọng hoàn cảnh giao tiếp tốt. Một lời động viên, ánh mắt trìu mến của thầy cô giáo, sự lắng nghe chăm chú nghiêm túc của bạn bè cả lớp sẽ là một niềm khích lệ, cổ vũ, giúp các em tự tin, mạnh dạn trong khi nói/kể.
Giáo viên không nên ngắt lời học sinh và tiếp lời các em phải đúng lúc, đúng chỗ. Sự đứt mạch trong suy nghĩ sẽ làm các em lúng túng và nhiều khi không thể tiếp tục trình bày lại được. Chờ khi thật cần thiết, giáo viên mới dừng lời nói của học sinh và hết sức tránh tình trạng một bài nói của học sinh phải dừng tới 2 đến 3 lần khi các em đang trình bày.
Giúp học sinh chọn giọng nói thích hợp. Nói đều đều, nói to quá hay nhỏ quá, nói đứt quãng không liên tục, nói hết ý trước mà vẫn không tiếp nối được ý sau ... đều hạn chế kết quả trình bày. Tập cho học sinh thói quen tránh những lời nói không đúng chỗ, cử chỉ thừa, những thói quen xấu có ảnh hưởng tới hiệu quả của lời nói, tránh nói như đọc thuộc lòng.
Dạy Tiếng Việt chính là việc dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ. Muốn cho việc trình bày bài nói của học sinh có hiệu quả, kích thích hứng thú luyện nói cho các em, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm được nghệ thuật nói, cụ thể là:
+ Nói đúng yêu cầu đề bài ( nội dung súc tích, ý mạch lạc, đầy đủ ) .
+ Chọn cách nói phù hợp với đối tượng ( người nghe )
+ Phong cách tự nhiên, biết điều khiển giọng nói ( ngữ điệu , âm sắc, cường độ, cao độ, trường độ ...
Tuỳ thuộc vào giai đoạn tập nói (đầu năm học hay giữa năm học ... mới làm quan với bài văn nói hay đã quen thuộc ...) tuỳ trình độ học sinh từng lớp, giáo viên cần đề ra yêu cầu tập nói sao cho phù hợp, nói một ý hay nói 2, 3 ý liên tục tiến tới nói cả đoạn, cả bài.
Tôi sử dụng những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt ý hoặc gợi tìm từ để diễn đạt mỗi khi học sinh lúng túng, tập cho học sinh trình bày bài nói/kể một cách tự nhiên, thoải mái kết hợp lời kể với nét mặt, cử chỉ, giọng điệu đồng thời biết nghe và nhận xét bài nói của bạn để học tập, rút kinh nghiệm cho bản thân.
Khi học sinh đã nói tốt rồi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bài viết của mình.
Ở phần này, tôi chú ý đến đối tượng học sinh phát âm chưa chuẩn các từ tiếng khó cần rèn đọc trong phần luyện đọc.
Lập danh sách những học sinh phát âm chưa chuẩn, để rèn cho các em trước hết phải phát âm đúng chính xác, từ đó các em mới bình tĩnh, tự tin phát biểu hay đưa ra ý kiến riêng của bản thân và lời nói trong giờ luyện nói mới có thể tự nhiên, trong sáng.
Cách tiến hành: Tôi lựa chọn các loại âm, vần địa phương thường phát âm sai chuẩn trong từng bài tập đọc để học sinh luyện phát âm thật đúng và chính
xác. Điều quan trọng ở đây chính là bản thân giáo viên phải là người phát âm chuẩn và chính xác.
Đa số học sinh trong lớp tôi làm chủ nhiệm các em thường phát âm sai x/s; phát âm sai âm ch/tr.
Do đó trong phần yêu cầu luyện đọc từ khó ở tất cả các bài tập đọc, tôi luôn quan tâm lựa chọn những từ ngữ có chứa âm đầu x/x; ch/ tr. Bên cạnh đó, tùy theo nội dung của bài học, tôi đưa ra những trò chơi giúp hoạt động vừa học vừa vui chơi cho thoải mái.
Ví dụ: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi
Thi đọc nhanh và đúng câu có âm đầu, vần, thanh dễ lẫn.
Chuẩn bị: Mỗi em có thể tự nghĩ ra hoặc sưu tầm một số câu thơ, câu văn có những cặp âm đầu, vần, thanh dế đọc – viết lẫn lộn rồi ghi vào mảnh giấy làm “ đề bài” thi đọc trong nhóm.
Cách tiến hành:
Đưa ra từng “ đề bài” để lần lượt từng người đọc to trước các bạn. Nhóm cử ra một người theo dõi và đánh giá, hoặc cả nhóm cùng nghe và thống nhất đánh giá kết quả đọc của bạn theo tiêu chuẩn: đọc nhanh, phát âm đúng. ( có thể cho thang điểm 10 hoặc xếp theo 3 loại A, B, C)
Khi đọc xong tất cả “ đề bài”, tính tổng số điểm của từng người ( hoặc thống kê từng loại A, B, C) để chọn ra các bạn đạt giải nhất, nhì, ba. Cả nhóm có thể bình chọn để tuyên dương bạn nào sưu tầm ( hoặc tự nghĩ ra) được nhiều câu hay, câu có nhiều tiếng măng cặp đầu, vần, thanh dễ lẫn.
Gợi ý:
Dựa vào những “ đề bài” dưới đây, em có thể tìm thêm hoặc tự nghĩ ra những câu khác để đóng góp vào cuộc thi vui cùng các bạn.
* Đọc phân biệt các tiếng có âm đầu dễ lẫn
Phân biệt s/x
+ Anh bộ đội xúng xính trong bộ quần áo mới, vai súng nom thật oai vệ.
+ Nhìn lên bầu trời đầy sao sáng, anh bộ đội biên phòng lại xôn xao nhớ đến những người thân ở quê.
Phân biệt ch/ tr
Mặt tròn mặt lại đỏ gay
Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao Suốt ngày lơ lửng trên cao
Đêm về đi ngủ, chui vào nơi đâu?
Biện pháp thứ sáu: Rèn kỹ năng đọc
Rèn kỹ năng đọc được rèn chủ yếu ở phân môn Tập đọc qua các kỹ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc nâng cao). Chú trọng bước đọc thầm giúp học sinh vừa đọc thầm, vừa định hướng những vấn đề cần giải quyết. Ngoài ra phân môn tập làm văn còn có đọc lời các nhân vật trong khi đối thoại trực tiếp để dần tiến đến nói lời các nhận vật.
Nếu trong giờ, học sinh chỉ việc đọc và trả lời câu hỏi thì giờ học sẽ rất tẻ nhạt. Vì học sinh tiểu học thích hoạt động vui chơi nên tôi tổ chức một số trò chơi giúp cho học sinh thư giãn chống mệt mỏi và giờ học trở nên sinh động hơn. Trò chơi sẽ cuốn hút các em học một cách không hề nhàm chán và đặc biệt kết quả học tập lại rất cao.
Đối với bài tập đọc có lời văn đối thoại, tôi xây dựng màn kịch ngắn với nội dung của bài học. Học sinh sẽ được sắm vai các nhân vật trong bài.
Ví dụ: Trong bài: “ Cuộc họp của chữ viết” ( Tiếng Việt 3 – Tập 2) có các nhân vật sau: “ người dẫn chuyện, bác chữ A, đám đông, dấu chấm”.
Tôi gọi lần lượt học sinh lên bảng nhập vai, các em ở dưới đóng vai bọn trẻ. Tất cả học sinh trong lớp đều được hoạt động, đều được nói, được thể hiện bằng nét mặt, cử chỉ thông qua các nhân vật mà mình được đóng.
Với các giờ học như vậy, những học sinh đọc yếu đã tiến bộ rõ rệt. Các em tự tin vào bản thân mình hơn, giờ học diễn ra sôi nổi, học sinh hứng thú bài, đọc đúng và hay. Qua việc đọc, học sinh được mở rộng vốn từ, làm quen với nhiều từ ngữ mới, biết cách sử dụng từ ngữ mới, vận dụng vào lời nói giao tiếp hàng ngày.
Biện pháp thứ bảy: Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng; tình yêu cái đẹp, cải thiện thái độ ứng xử đúng trong cuộc sống; hứng thú đọc sách và yêu Tiếng Việt.
Các phân môn Tập đọc, Kể chuyện hay những câu chuyện trong giờ Đạo Đức là những môn học mà giáo viên dễ giáo dục tình cảm học sinh một cách sâu sắc nhất. Bên cạnh việc dạy học cho học sinh kiến thức không thể coi nhẹ việc trau dồi tình cảm, mỹ cảm. Chính những xúc cảm, cảm nhận của các em cũng khích lệ, thúc đẩy các em phát triển khả năng ngôn ngữ, tìm kiếm vốn từ biểu đạt. Dù học sinh thể hiện tình cảm dưới hình thức như thế nào giáo viên cũng cần tôn trọng tình cảm của các em.
Bồi dưỡng tình cảm yêu quý, kính trọng, thái độ lễ phép, lòng biết ơn và ý thức trách nhiệm với ông bà, cha mẹ, thầy cô, yêu trường lớp, đoàn kết giúp đỡ bạn bè; có lòng vị tha, nhân hậu.
Có ý thức tự giac, chăm chỉ học tập và rèn luyện.
Ham đọc sách, có khả năng cảm nhận cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học và tiếng việt.
Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm:
Qua đợt khảo sát thứ hai ở lớp mình, tôi đã thu được kết quả cụ thể bằng số liệu như sau: Tổng số học sinh: 45 em
Giao tiếp tốt + vốn
từ rộng
Giao tiếp tạm được
+ vốn từ tương đối
Nhút nhát, ngại
giao tiếp
SL
%
SL
%
SL
%
18
40
25
56
2
4
Nhìn vào kết quả trên: Số học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp và mở rộng được vốn từ tăng lên rõ rệt, số học sinh nhút nhát, vốn từ hạn chế chỉ còn 2 em (do một phần đặc điểm tính cách, tâm lý cá nhân) sau đợt khảo sát đợt
2. Học sinh đã tích cực, chủ động và hăng hái hơn trong tiết học, hoạt động giao lưu, tương tác giữa học sinh – học sinh, học sinh – giáo viên sôi nổi và hào hứng hơn, không còn cảm giác "ngao ngán" trả bài cho giáo viên nữa. Các em hào hứng, hăng say phát biểu ý kiến, thích nói và kể trước lớp. Tiết học sinh động,
giáo viên cảm thấy an tâm phấn khởi hơn với chất lượng giờ học các phân môn Tiếng Việt.
III – KẾT LUẬN
Từ khi nghiên cứu và thử nghiệm đề tài này ở lớp 3, tôi thấy học sinh lớp tôi có chuyển biến rõ rệt trong việc sử dụng từ ngữ, dùng từ chính xác hơn khi nói và viết. Đặc biệt học sinh vận dụng viết đoạn văn ngắn chặt chẽ về hình thức và nội dung, có cảm xúc, giàu hình ảnh. Các em đã tự tin nhiều khi giao tiếp, khi đến trường; các em thích trò chuyện với bạn bè, thích gần gũi với thầy cô và đặc biệt thích được đứng trước lớp kể cho cô và các bạn nghe câu chuyện của mình trong tiết Kể chuyện; các em học phân môn Tập làm văn cũng tốt hơn.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng vào việc giảng dạy để giúp học sinh học tích cực phân môn Luyện từ và câu lớp 3. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Long Biên, ngày 24 tháng 3 năm 2023
Người viết
Nguyễn Thị Thúy Hằng
PHỤ LỤC
+ Hình ảnh minh họa bài “ Cây gạo” ( Tiếng Việt 3, tập 2)
Ví dụ: Nói và nghe: Cùng vui làm việc ( Sách giáo khoa Tiếng Việt tập 2 trang 56).
Học sinh làm việc nhóm
Ví dụ: Bài tập 3 trang 29 sách Kết nối tri thức với cuộc sống tập 2: Quan sát từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu có hình ảnh so sánh các sự vật trong tranh:
Danh mục tài liệu tham khảo
Chuyên đề giáo dục Tiểu học tập 6, tập 7 , tập 8 ...	(NXB Giáo dục 2003)
Thế giới trong ta	(NXB Giáo dục 2003)
Hỏi - đáp về dạy Tiếng Việt	Nguyễn Minh Thuyết (NXB Giáo dục 2003)
Tiếng Việt nâng cao lớp 3	Trần Đức Niềm - Lê Thị Nguyễn
Trò chơi học tập Tiếng Việt 3	Trần Mạnh Hưởng - Lê Phương Nga
Các tạp chí tuổi thơ	(NXB giáo dục 2003)

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_noi_thong_qua_mon_tieng_vi.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói thông qua môn Tiếng Việt cho học sinh Lớp 3 ở trường Tiểu học.pdf