Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói cho học sinh Lớp 2
Để nắm được khả năng nói của học sinh, khi nhận lớp tôi đã chủ động gần gũi giao tiếp với các em và quan sát những tình huống giao tiếp tự nhiên. Trong các tình huống giao tiếp tôi cố gắng đưa vào những nghi thức của lời nói như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, đồng ý, không đồng ý, từ chối…để xem phản ứng của học sinh. Tôi thấy đa số các em chưa biết đưa ra lời nói phù hợp với những tình huống giao tiếp.
Thực tế hiện nay do các em ít được tiếp xúc với xung quanh do bố mẹ bận đi làm và vì vậy vốn hiểu biết về các quy tắc giao tiếp của các em rất yếu. Đồng thời nhiều gia đình do cha mẹ bàn giao con ở nhà cho người giúp việc đến từ các địa phương nên các em cũng bị ảnh hưởng trong cách nói, cách phát âm của những địa phương khác nhau. Các em chưa biết cách diễn đạt ý của mình sao cho lịch sự khi giao tiếp với bạn bè hay mọi người xung quanh.
Trong giao tiếp hàng ngày các em rất ít khi nói lời khen ngợi, cảm ơn nên trong bài học các em còn lúng túng, ngại ngùng khi thực hành nói lời cảm ơn, khen ngợi.
Do các tiết học có thời lượng rất ngắn nên GV không thể cho nhiều học sinh được thực hành nhiều các nghi thức giao tiếp.
Hiện tại, một số học sinh ở địa bàn Thụy Khuê khi nói các em vẫn sai nhiều lỗi phát âm và một số học sinh do bố mẹ xuất thân ở tỉnh ngoài nên cũng ảnh hưởng lối phát âm của địa phương.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói cho học sinh Lớp 2

triển khẩu ngữ. Cách tiến hành: Trước hết để giờ luyện nói đạt kết quả tốt, giáo viên cần dành thời gian nghiên cứu nội dung của bài luyện nói để đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sao cho phù hợp với nội dung bài cũng như phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Với từng nội dung của bài luyện nói, giáo viên phải tìm tòi, sáng tạo đưa ra những tiểu phẩm, tình huống ngắn gọn phù hợp với nội dung bài để học sinh tập sắm vai thể hiện ngôn ngữ của bản thân thật tự nhiên, trong sáng Ví dụ: Trò chơi về Tập làm văn Chọn lời cho đúng Chuẩn bị: 4 tranh ảnh (hoặc hình vẽ) minh họa 4 tình huống khác nhau có xuất hiện lời cảm ơn và lời đáp lại lời cảm ơn: Bạn gái xách 1 vật nặng, một bạn trai tới để xách giúp Bạn trai chơi chạy đuổi bị vấp ngã, được một bạn khác đỡ dậy. Trong giờ học vẽ, bạn gái cho bạn trai mượn chiếc bút chì. Trên đường đi học về, bạn trai đưa cho bạn gái chai nước uống 1 túi sách to đựng một số đồ vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước uống GV làm trọng tài, cử hai học sinh trong lớp giúp việc cho trọng tài. Chia lớp thành 4 nhóm (mỗi nhóm ít nhất 8 học sinh); phân công 2 học sinh tham gia 1 tình huống của trò chơi Cách tiến hành: Nêu cách chơi và tính điểm: Mỗi nhóm cử hai học sinh tham gia trò chơi ở tình huống thứ nhất. Học sinh tham gia trò chơi bước lên trước bảng lớp để các học sinh khác tiện theo dõi. Học sinh đại diện cho từng nhóm lần lượt lên chơi trò đóng vai ở mỗi tình huống đã cho trong khoảng 1 phút. Ví dụ: 2 học sinh đại diện cho hai nhóm tham gia chơi. Một em đóng vai bạn gái đang xách một cái túi to bước đi chậm chạp và nặng nhọc. Một em đóng vai bạn trai đến bên bạn gái và nói: “Bạn để mình xách đỡ cho nào!” rồi đỡ lấy chiếc túi từ tay bạn gái. Bạn gái nói: “Cảm ơn bạn, bạn tốt quá!”. Bạn trai cười tươi và nói: “Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà!”. Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, trọng tài yêu cầu hai học sinh giúp việc đọc to lời của hai vai trong nhóm để cả lớp cùng nghe lại và bình chọn lời nói đúng. Nếu một vai nói đúng một câu sẽ được một điểm, nói đúng 2 câu sẽ được 2 điểm. Tổng số điểm của hai vai là số điểm của mỗi nhóm trong từng tình huống chơi Học sinh tiếp tục chơi ở các tình huống khác theo gợi ý nói trên Thực hành chơi 4 học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình huống thứ nhất đến tình huống thứ tư theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 học sinh trong nhóm chơi xong ở tình huống thứ nhất thì nhóm cử 2 học sinh khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở 4 tình huống. 2 học sinh giúp việc trọng tài ghi lại câu nói của 2 bạn tham gia chơi ở từng tình huống. Mỗi học sinh giúp việc cho trọng tài chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai cảm ơn hoặc vai đáp lại cảm ơn). Sau mỗi tình huống, trọng tài ghi điểm cho từng nhóm lên bảng lớp. Khi các nhóm đã chơi đóng vai ở tất cả các tình huống thì trọng tài cộng điểm và công bố nhóm có điểm cao nhất để khen thưởng. Lưu ý: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh kết hợp cử chỉ, ánh mắt, điệu bộ để thể hiện lời nói của mình với từng tình huống giao tiếp khác nhau. Loại bài tập luyện kĩ năng hội thoại: Đây là loại bài tập học sinh tham gia trò chuyện cùng nhau, trả lời phỏng vấn, cùng nhau tranh luận về một đề tài theo nội dung bài học của mình, một câu có nội dung đề nghị bạn trả lời đúng đồ dùng cho mình. Ví dụ: Đóng vai chúc mừng nhau (Đáp lời chia vui). Chuẩn bị: Giáo viên cần đưa ra các tình huống phù hợp giúp các em sắm vai vào các tình huống được dễ dàng và thuận tiện. 3 hình vẽ (hoặc tranh ảnh) minh họa 3 tình huống khác nhau có xuất hiện lời chúc mừng và lời đáp lại lời chúc mừng: Bạn gái đội mũ, trên mũ có dòng chữ “Giải nhất viết chữ đẹp”; một bạn tặng hoa chúc mừng bạn đoạt giải. Bạn trai tay ôm quả bong, đầu đội mũ, trên mũ có dòng chữ “Đội vô địch”; một bạn gái đang bắt tay chúc mừng bạn đại diện cho đội vô địch. Bạn trai đang đứng trên sân khấu để nhận giải thưởng. Sau lưng bạn trai là tiêu đề cuộc thi: “Thi kể chuyện hay”; một mang hoa lên tặng bạn trai được giải thưởng và nói lời chúc mừng. 5 chiếc mũ làm bằng dải bìa quây tròn, trên có dòng chữ “Giải nhất viết chữ đẹp” 5 quả bóng có dán băng giấy, trên băng giấy có ghi “Đội vô địch”. 5 chiếc mũ làm bằng dải bì, quây tròn, trên có điểm 10 và chữ KC (kể chuyện) Chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm ít nhất 6 học sinh, sao cho cứ 2 em đóng vai để thực hiện 1 tình huống được minh họa trong tranh. GV làm trọng tài, 2 học sinh giúp trọng tài làm việc. Cách tiến hành: Nêu cách chơi và tính điểm. Ví dụ: 2 học sinh đại điện cho nhóm 4 tham gia chơi. Một học sinh đóng vai bạn gái đoạt giải nhất trong kỳ thi “Viết chữ đẹp” của trường. Một học sinh đóng vai bạn gái lên chúc mừng bạn được giải và nói: “Chúc mừng bạn! Chúng tớ vui lắm!” rồi xiết chặt tay bạn. Bạn được giải đáp: “Cảm ơn các bạn!”. Thực hành trò chơi: 3 nhóm học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình huống đầu đến tình huống cuối theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 học sinh trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm lại cử hai học sinh khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở 3 tình huống. 2 học sinh giúp việc trọng tài ghi lại câu nói của hai bạn tham gia trò chơi ở từng tình huống, mỗi học sinh giúp việc trọng tài chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai chúc mừng hoặc vai đáp lời chúc mừng). Sau mỗi tình huống, trọng tài ghi điểm cho từng nhóm lên bảng lớp. Khi các nhóm đã chơi đóng vai ở tất cả các tình huống thì trọng tài cộng điểm và công bố nhóm có điểm cao nhất để khen thưởng. Loại bài tập kể chuyện: (Kể chuyện đã nghe, đã đọc, kể chuyện về bản thân và những người xung quanh) Loại bài tập này được áp dụng ở phân môn kể chuyện. Cần chú ý hướng dẫn học sinh có tư thế, có giọng kể thích hợp, biết sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ hỗ trợ, đặc biệt nẵm vững câu chuyện định kể. Ví dụ: Phân vai dựng chuyện Chuẩn bị: GV lựa chọn bài tập ở tiết kể chuyện có yêu cầu phân vai dựng lại câu chuyện (Trong SGK Tiếng Việt lớp 2); có thể dựa vào văn truyện kể ở SGK, soạn thành “Màn kịch ngắn” như dưới đây để hướng dẫn học sinh tham gia dựng lại câu chuyện (lời dẫn trong ngoặc đơn nhằm gợi ý về thái độ, cử chỉ, hành động của nhân vật hoặc gợi ý tạo dựng bài trí khung cảnh) Ví dụ minh họa: Câu chuyện Những quả đào, Tiếng Việt 2, Tập 2, Trang 91 có thể được dựng lại thành kịch bản cho màn kịch ngắn như dưới đây để hướng dẫn học sinh tham gia dựng lại câu chuyện (lời dẫn trong ngoặc đơn nhằm gợi ý về thái độ, cử chỉ, hành động của nhân vật hoặc gợi ý tạo dựng bài trí khung cảnh) Những quả đào Nhân vật: Ông Bà Cậu bé Xuân Cô bé Vân Cậu bé Việt Cảnh 1: (Bà và các cháu Xuân, Vân, Việt đang ngồi trò chuyện trên ghế băng. Ông vừa đi xa về, từ ngoài cửa đi vào, trên tay cầm 4 quả đào: một quả to, 3 quả nhỏ) Ông (đưa quả đào to cho bà, 3 quả nhỏ chia cho 3 cháu): Quả to này xin phần bà. Ba quả nhỏ chia cho 3 cháu. Cảnh 2: (Khung cảnh trong nhà vào buổi chiều. Một mâm cơm bày sẵn trên chiếc bàn có khăn trải, cả nhà ngồi trên 5 chiếc ghế quây quanh bàn). Ông (Hỏi các cháu): Thế nào, các cháu thấy đào có ngon không? Xuân: Đào có vị rất ngon và mùi thật là thơm, ông ạ. Cháu đã đem trồng vào một cái vò. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ mọc thành một cây đào to đấy ông nhỉ? Ông (mỉm cười, gật đầu, vẻ hài lòng): Ừ, mai sau cháu sẽ làm vườn giỏi đấy! Vân (Nói với ông, vẻ tiếc rẻ): Đào ngon quá, cháu ăn hết mà vẫn thèm. Còn hạt thì cháu vứt đi rồi ông ạ. Ông (xoa đầu Vân nhẹ nhàng, cười độ lượng): Ôi, cháu của ông còn thơ dại quá! (Lúc này, Việt chỉ chăm chú vào chiếc khăn trải bàn, không nói gì) Ông (Nhìn Việt vẻ ngạc nhiên, hỏi): Còn Việt? Sao cháu chẳng thấy gì thế? Việt (hơi bẽn lẽn nhưng giọng nói tỏ vẻ rất vui): Cháu ấy ạ? Cháu mang đào cho bạn Sơn. Bạn ấy bị ốm. Nhưng bạn ấy lại chẳng muốn nhận quả đào cháu tặng. Cháu lén đặt quả đào lên giường bạn ấy rồi trốn về ông ạ. Ông (thốt lên phấn khởi, xoa đầu Việt một cách âu yếm): Ôi chao, cháu yêu quý của ông, cháu là người có tấm lòng thật là nhân hậu. Ông rất hài lòng về việc làm của cháu đấy! * Một số đồ vật phục vụ cho việc bài trí khung cảnh và diễn xuất: - 1 chiếc ghế dài (cảnh 1); 1 chiếc bàn tròn (hoặc chữ nhật) và 5 chiếc ghế đơn (ghế đẩu hoặc ghế tựa); 1 mâm cơm có vài chiếc bát, đĩa có thức ăn tượng trưng; 4 quả đào thật hoặc đào giả bằng nhựa (1 quả to, 3 quả nhỏ). - Quần áo cho học sinh đóng vai người ông, vai người bà (có thể hóa trang về râu, tóc cho phù hợp); trang phục thích hợp tính cách từng nhân vật: Vân (ngây thơ, hồn nhiên), Việt (hiền từ, nhân hậu), Xuân (cẩn thận, chu đáo). Cách tiến hành: GV cho học sinh nhận vai, học thuộc lời thoại, nắm vững yêu cầu thể hiện tình cảm, thái độ (qua ánh mắt, cử chỉ, động tác, giọng nói) của nhân vật trong chuyện. GV hướng dẫn các nhân vật tập đối thoại sao cho thuộc lời, phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng, tự nhiên (chưa cần diễn xuất cụ thể). GV hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật theo “kịch bản” đã chuẩn bị (tương tự như “đạo diễn” đựng kịch nói hay hoạt cảnh); trình diễn thử với đạo cụ và bài trái khung cảnh nêu trong “kịch bản”. Học sinh trình diễn “màn kịch ngắn” trước lớp; GV cho cả lớp nhận xét, bình chọn những học sinh diễn xuất giỏi để biểu dương, khen thưởng. PHẦN 4: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM Qua một số phương pháp luyện nói cho học sinh đã nêu ở trên, tôi đã thu được những kết quả chủ yếu trong dạy học như sau: Đa số học sinh trong lớp có khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh rất tốt như: các em nhận thức được cần phải lễ phép với người trên, phải xưng hô đúng cách, phải biết nói lời cảm ơn hay xin lỗi đúng chỗ, đúng nơi, đúng lúc. Khi giao tiếp với thầy cô giáo trong trường theo đúng nghi thức, hầu hết học sinh đều biết sử dụng lời nói biểu cảm để bày tỏ sự lễ phép của mình. Trong tất cả các giờ học trên lớp, học sinh đã biết trả lời các câu hỏi của giáo viên với nội dung đầy đủ ý nghĩa, biết cách trả lời câu hỏi một cách rõ ràng, trả lời cả câuViệc giao tiếp với bạn bè trong lớp cởi mở, tự tin hơn rất nhiều. + Các giờ học diễn ra sôi nổi, nhẹ nhàng thu hút được sự chú ý của học sinh đến tận cuối giờ học . + Giáo viên không phải gò bó học sinh tiếp thu kiến thức mà học sinh chủ động, hào hứng, tự tin trong học tập . + Các hình thức dạy học này có thể áp dụng ở nhiều môn học khác và các khối lớp khác mà vẫn có thể đạt hiệu quả cao . Bảng thống kê khả năng nói – giao tiếp của học sinh lớp 2I đến giữa học kỳ II năm học 2011-2012 Khả năng Số học sinh Tỷ lệ % Nói tốt 38 HS 66,7% Nói khá 16 HS 28,1% Nói được 3HS 5,2% Với kết quả 2 mặt giáo dục như đã nêu trên, tôn tin tưởng các em học sinh lớp 2 do tôi chủ nhiệm ở năm học 2011-2012 này, các em đủ điều kiện lên lớp 3 để tiếp tục học tập và tiếp cận với chương trình các lớp trên và có khả năng giao tiếp tốt trong mọi trường hợp. BÀI HỌC KNH NGHIỆM Môn Tiếng Việt ở tiểu học có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học. Nhu cầu học tập của học sinh ngày càng cao, giáo viên phải không ngừng học hỏi, nghiên cứu tài liệu giáo dục nhằm thỏa mãn nhu cầu ham học hỏi của học sinh. Trong quá trình dạy học, người giáo viên cần phối hợp linh hoạt các phương pháp và có các hình thức dạy học tạo không khí hào hứng, vui tươi, phấn khởi để học sinh tiếp thu bài học với hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, sự quan tâm của cha mẹ học sinh đối với việc học tập của con em mình chính là động lực mạnh mẽ nhất giúp học sinh thực sự trở thành những con ngoan, trò giỏi, là những công dân văn minh, lịch sự, có ích cho gia đình, nhà trường và xã hội. Có thể nói, việc áp dụng một số hình thức dạy học khi hướng dẫn cho học sinh làm bài tập chính tả là một việc làm rất thiết thực. Nó giúp cho người giáo viên thể hiện được tài năng sư phạm của mình đồng thời giúp cho học sinh tích cực, chủ động trong việc tiếp thu kiến thức. Tuy nhiên để việc thức hiện được thành công người giáo viên cần lưu ý một số điều sau : Trước thực tế giảng dạy trong năm học vừa qua, với tư cách là một giáo viên dạy tiểu học, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất như sau: * Đối với nhà trường và xã hội: Từ khi trẻ bập bẹ biết nói, những người lớn tuổi trong gia đình phải luôn lưu tâm uốn nắn lời ăn tiếng nói của con em mình. Các cụ đã dạy “Uốn cây từ thuở còn non”. Không những thế, người lớn còn là tấm gương cho trẻ noi theo. Khi trẻ bắt đầu đến trường, thì cùng với gia đình, nhà trường và xã hội cần giáo dục trẻ ngay từ những thói quen trong giao tiếp mạnh dạn, tự tin, thanh lịch văn minh, thể hiện tác phong, tư cách đạo đức con người có văn hóa. Do đó sự phối kết hợp ăn ý nhịp nhàng giữa nhà trường và gia đình là vô cùng quan trọng và cần thiết. * Đối với giáo viên : + Phải đọc kỹ sách giáo khoa , sách hướng dẫn để nắm chắc mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học từ đó sẽ có sự lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp và chuẩn bị ĐDDH đầy đủ. + Khi thiết kế bài giảng, giáo viên cần chuẩn bị kĩ lưỡng hệ thống câu hỏi gợi ý phù hợp từng đối tượng học sinh, đặc biệt chú trọng tới học sinh còn chậm, tự kỷ, học sinh yếu kém. + Khi thực hiện giáo viên phải phân tích kỹ nội dung, yêu cầu của từng bài để học sinh không lúng túng (đối với bài quá khó có thể làm mẫu cho học sinh) + Cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức để tránh nhàm chán cho học sinh . + Khi tổ chức hình thức trò chơi cần đánh giá công bằng, chính xác, không nên có thái độ thiên vị. Giáo viên cũng nên động viên, khuyến khích để các em học sinh còn chậm, tự kỷ, học sinh yếu kém có điều kiện hoà đồng, tích cực tham gia học tập cùng với các bạn trong lớp. * Đối với học sinh : + Khi làm việc theo nhóm khuyến khích học sinh phải tích cực suy nghĩ động não, tránh ỷ lại các bạn nhóm trưởng. Tuy nhiên, đối với học sinh còn chậm, tự kỷ, học sinh yếu kém cần phải có sự hỗ trợ tích cực của các bạn trong nhóm. + Khi tham gia chơi tránh hò hét quá to ảnh hưởng tới các lớp học xung quanh và không nên có thái độ “ăn thua” trong khi chơi. Bên cạnh đó, mỗi giáo viên cần dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu giảng dạy, tăng cường hiệu quả của các giờ sinh hoạt chuyên môn để đưa ra những bài giảng sinh động, hấp dẫn. Ngôn ngữ của giáo viên phải chuẩn mực, chính xác, trong sáng. KẾT LUẬN Tóm lại, với nhận thức đúng đắn về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học tích cực; với những điều kiện dạy học đầy đủ; với lòng yêu nghề mến trẻ nhất định các bạn đồng nghiệp sẽ thành công trong công tác giảng dạy của mình. Trên đây là một số kinh nghiệm giảng dạy mà tôi đã vận dụng trong những năm qua và cũng thu được những kết quả nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp để cá nhân tôi cũng như mỗi giáo viên chúng ta càng ngày sẽ có càng nhiều những sáng kiến, những kinh nghiệm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng giáo dục ngày càng phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực. Ngày 2 tháng 4 năm 2012 NGƯỜI VIẾT Trịnh Thị Phú Hà MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG PHẦN 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 4 PHẦN 2: THỰC TRẠNG 5 PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM “RÈN KĨ NĂNG NÓI TRONG GIỜ HỌC TIẾNG VIỆT CỦA HỌC SINH LỚP 2” 6 PHẦN 4: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM 18 BÀI HỌC KNH NGHIỆM 19 KẾT LUẬN 23
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_noi_cho_hoc_sinh_lop_2.doc