Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Lớp 2 thông qua phân môn Tập làm văn
Dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng không chỉ là dạy lí thuyết ngôn ngữ mà quan trọng hơn đó là việc dạy hoạt động ngôn ngữ. Bởi thế nên các yếu tố của tình huống giao tiếp rất được quan tâm.
Trong cuộc sống hàng ngày, Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp của người Việt. Do đó, mỗi người Việt Nam cần sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ của mình. Việc nói đúng tiếng Việt của mỗi người được bắt đầu từ đâu? Có thể cho rằng, khi trẻ cất tiếng nói đầu tiên đã được cha mẹ, người thân hướng dẫn cách nói. Nhưng việc hướng dẫn trẻ nói tiếng Việt đúng, chuẩn, có phương pháp, có hệ thống thì đó đó là thời điểm khi trẻ bước vào học Tiểu học. Khi đến trường, các em được gia nhập vào một phạm vi giao tiếp mới có tổ chức: xã hội- lớp học (giao tiếp với thầy cô giáo, với bạn bè). Các em không thể nói nói nũng nịu hay lí nhí gật đầu như nói với bố mẹ. Hơn thế nữa, các em còn hiểu rằng trong giao tiếp có những lời nói hay, lời nói đẹp và có những lời nói là không hay, không đẹp.
Khi cô giáo hỏi “Em làm bài tập chưa?”, các em không thể nói “làm rồi”. Các em phải hiểu và biết thực hiện nói thành câu thể hiện sự lễ phép “Thưa cô, em làm bài rồi ạ!”. Hoặc trong giao tiếp với mọi người xung quanh, các em biết rằng khi mắc lỗi (hay phạm khuyết điểm) thì cần phải nói lời xin lỗi, khi được người khác giúp đỡ phải biết đáp lại những lời cảm ơn. Để học sinh tiểu học, nhất là học sinh lớp 2 thực hiện được điều này là nhờ môn tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Lớp 2 thông qua phân môn Tập làm văn

ng sao. Có phải cậu cố tình đâu. Một bạn chạy xô vào em, bạn vội nói: “ Cho tớ xin lỗi nhé!” c1. Đi đứng kiểu gì đấy? c2. Không việc gì đâu. Lần sau bạn nhớ cẩn thận nhé! c3. Cậu phải để ý một chút chứ! (Sách Tiếng Việt nâng cao 2 – trang 128,129 – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam) Với 2 bài tập này, giáo viên có thể cho các em đổi vai để học sinh đảm nhận vai giao tiếp khác. Hoặc có thể cho học sinh thảo luận theo nhóm, thi giữa các nhóm để tìm câu trả lời hay nhất. Như vậy có thể nói phân môn Tập làm văn ở sách Tiếng Việt lớp 2 có nhiều ưu thế để thực hiện nhiệm vụ rèn kỹ năng nói, đồng thời còn phát triển ngôn ngữ cho học sinh. Song bên cạnh đó, ta cũng thấy được đa số bài tập luyện kỹ năng nói cho học sinh mới đề cập đến quan hệ ngang vai (quan hệ giữa bạn với bạn). Do đó nội dung chưa phong phú, học sinh không được luyện nói với các tình huống ở quan hệ khác. Vì vậy, về mặt nội dung dạy học, giáo viên nên mở rộng phạm vi của một số nghi thức: chào (chào trong gia đình, chào bạn bè thân thiết), giới thiệu (tự giới thiệu, giới thiệu qua người thứ ba), hứa hẹn, xin phép, xác nhận, hỏi; dạy cho học sinh sử dụng các hành vi ngôn ngữ gián tiếp. Đồng thời giáo viên phải rèn luyện kỹ năng trao lời, đáp lời cho học sinh trong các cặp trao đáp. Chẳng hạn, các cặp: chào/chào, cảm ơn/ đáp lại lời cảm ơn, xin lỗi/ đáp lại lời xin lỗi, chia vui/đáp lại lời chia vui, khen/ đáp lại lời khen, hỏi/ trả lời. Ví dụ: Học sinh có thể đóng vai thực hiện các cặp hành vi trao - đáp: - Chúc mừng sinh nhật bạn! - Cảm ơn bạn đã chia vui cùng mình.( Cảm ơn bạn đã quan tâm đến mình nhé/ Ồ mình vui quá, cảm ơn bạn nhé! Việc tuân thủ nguyên tắc hội thoại sẽ giúp cho việc rèn luyện kỹ năng được tiến hành tự nhiên, có hiệu quả. 3.4.2. Hướng dẫn sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ trong giao tiếp. Trong giao tiếp, các yếu tố phi ngôn ngữ đóng một vai trò khá quan trọng. Do vậy, trong trong các tiết học, giáo viên phải chú ý rèn luyện cho học sinh kỹ năng thể hiện thái độ, tình cảm và các yếu tố kèm lời nói khi giao tiếp. Sắc mặt, cử chỉ, thái độ, ánh mắt, nụ cười và các yếu tố ngữ điệu đều tham gia trực tiếp vào việc chuyển tải nội dung thông tin của các lượt, lời trao đáp. Vì vậy, trong mỗi tiết dạy, giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh cách thể hiện thái độ, tình cảm, cử chỉ và ngữ điệu nói phù hợp với mỗi hành vi lời nói. Chẳng hạn, khi nói lời chúc mừng thì phải vui vẻ, nhiệt thành; khi xin lỗi thì phải ăn năn, biết lỗi 3.4.3. Đa dạng hóa các dạng bài tập thực hành giao tiếp. Để rèn cho học sinh kĩ năng giao tiếp tốt trong mọi tình huống thì cần phải đa dạng hoá hệ thống bài tập. Bài tập phải được xây dựng dựa trên các nhân tố giao tiếp; phải tạo được môi trường và nhu cầu giao tiếp cho học sinh; phải kết hợp rèn luyện nhiều kỹ năng trong giao tiếp như: kỹ năng nghe, kỹ năng nhận biết thái độ tình cảm của người đối thoại, kỹ năng đáp lời nhanh, phù hợp, khéo léo. Vì vậy, hệ thống bài tập phải bao gồm bài tập phát triển kỹ năng nghe, bài tập phát triển kỹ năng nói. Trong mỗi loại, bao gồm nhiều dạng nhỏ với mục đích rèn các kỹ năng cụ thể, tinh tế, chữa các lỗi về giao tiếp. 3.4.4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học. Để việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh trong các tiết Tập làm văn đạt hiệu quả cao, trong dạy học, giáo viên phải phong phú hoá các phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện bài tập. Bên cạnh phương pháp đóng vai, được xem là xương sống của việc dạy học Tập làm văn lớp 2 dạng bài rèn kĩ năng giao tiếp hiện nay thì giáo viên nên kết hợp các phương pháp khác như nêu vấn đề, hỏi - đáp, rèn luyện theo mẫu giao tiếp Sau khi nắm vững nội dung chương trình của các dạng bài nghi thức lời nói, giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ đặc điểm nội dung của từng bài tập để giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nói hay hơn. Bởi vì dạy nghi thức lời nói là một nội dung hoàn toàn mới mẻ đối với giáo viên. Trong quá trình giảng dạy giáo viên không những phải bám sát sách giáo khoa và dựa vào gợi ý sách giáo viên để thực hiện giờ dạy mà còn phải nghiên cứu, lựa chọn thêm một số tình huống để sát với thực tế và bổ sung cho đủ 3 tương quan giao tiếp (ngang vai, với vai trên, với vai dưới). Giáo viên phải suy nghĩ, chia nhỏ câu hỏi để gợi ý học sinh dễ dàng trả lời, dẫn đến giao tiếp, luyện nói dễ dàng hơn. Sau mỗi tiết dạy hướng dẫn thực hành nghi thức lời nói thì giáo viên nên suy nghĩ để rút ra phần ghi nhớ về cách sử dụng lời nói và tác dụng của nghi thức lời nói. Câu ghi nhớ có thể là câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao hay có thể là những câu văn vần, những câu thơ ngắn các em dễ nhớ, dễ thuộc. Ví dụ khi dạy bài “Nói lời cảm ơn”, giáo viên có thể bổ sung ghi nhớ bằng câu ca dao: “ Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Hay khi dạy bài “Nói lời xin lỗi” hoặc “Đáp lời xin lỗi”, giáo viên cần cho học sinh rút ra bài học: Khi làm phiền người khác phải nói lời xin lỗi, khi nghe người khác xin lỗi cần đáp lại với thái độ nhẹ nhàng, thông cảm. Ngoài ra, với mỗi tình huống, giáo viên nên đưa ra các đáp án phong phú hơn. Một số lời nói thông dụng có thể giới thiệu thêm một vài cách nói phổ biến trong thực tế đời sống. Ví dụ: Khi dạy lời chào, có thể có nhiều cách chào khác nhau: - Chào nhau lúc gặp mặt khác lời chào chia tay. - Với những người quen thân, khi gặp nhau, có thể dùng lời hỏi thay cho lời chào. Ví dụ: - Cậu đi đâu đấy? - Cô đi chợ ạ? Câu hỏi thay cho lời chào có thể hiểu ở dạng người nghe không cần trả lời cụ thể, chi tiết. Giáo viên cần chuẩn bị sẵn hệ thống câu hỏi gợi ý phù hợp với đối tượng học sinh để các em hiểu và thực hành. Có thể gợi ý để các em có nhiều cách nói khác nhau, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Ví dụ bài: Đáp lời xin lỗi ( Sách Tiếng Việt 2 tập 2 trang 39) Bài tập đưa ra tình huống: Bạn làm bắn mực vào áo em, nói lời xin lỗi. Em đáp lại như thế nào? Giáo viên có thể đặt ra câu hỏi gợi ý để học sinh có nhiều cách nói và đáp khác nhau. - Nếu em vô ý làm bắn mực vào áo bạn em sẽ nói như thế nào? ( Tớ xin lỗi ! ) - Em nào có thể nói lời xin lỗi của mình theo cách khác không? ( Xin lỗi ! Tớ làm bẩn áo cậu rồi./ Tớ vô ý quá! Xin lỗi cậu nhé!/ Xin lỗi cậu, tớ lỡ tay thôi!) - Nếu bạn xin lỗi em sẽ trả lời ra sao? ( Không sao. ) - Em nào giỏi hơn có thể đáp lại bạn bằng câu nói thể hiện cả suy nghĩ của mình hay hơn bạn? ( Có gì đâu, chỉ bẩn có tí tẹo mà/ Cậu đừng ngại mẹ tớ sẽ giặt sạch được mà) Trong giao tiếp, lời nói luôn đi kèm với các yếu tố phi ngôn ngữ như: giọng điệu, ánh mắt, cử chỉ, nét mặt ... thì lời nói sẽ hấp dẫn hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Vậy nên giáo viên luôn luôn chú ý hướng dẫn, uốn nắn cho học sinh kết hợp các yếu tố này khi thể hiện lời nói. Ví dụ khi chia buồn, an ủi người khác thì giọng điệu phải thể hiện sự thông cảm, tình cảm, lời nói phải nhẹ nhàng, không được vừa nói vừa cười ... Khi đáp lời xin lỗi của người khác cần nói năng nhẹ nhàng, sẵn sàng tha thứ, khiêm tốn. Với người trên lời nói cần kèm theo các từ: dạ, thưa, ạ ..., nét mặt, giọng nói thể hiện sự kính trọng. Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần phối hợp sử dụng linh hoạt các biện pháp hình thức dạy học khác nhau. Việc rèn cho học sinh kỹ năng nói cần kiên trì, tránh nôn nóng, áp đặt cho các em các câu hỏi, câu trả lời theo một khuôn mẫu nhất định. Cần khuyến khích, động viên tạo không khí thoải mái để các em tự nêu cách nói của mình, không bắt chước theo bạn. Ở mỗi loại bài tập có thể cho các em đóng vai cùng cặp với mình, sau đó đổi vai nhau để các em được diễn đạt lời nói trong từng tình huống khác nhau ( người trao lời nói và người đáp lời nói ) một cách tự nhiên thoải mái, tránh luyện nói một chiều. 4. Kết quả thực nghiệm: Qua quá trình áp dụng các biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn như đã trình bày, tôi thấy học sinh ngày càng mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp. Các em không chỉ biết cách trao lời và đáp lời mà còn biết sử dụng những lời nói văn minh, lịch sự khi giao tiếp. Kết quả khảo sát thu được tại 2 lớp trong cùng một bài dạy “Đáp lời xin lỗi” với cách dạy khác nhau cụ thể như sau: Lớp Sĩ số Số học sinh chưa biết cách nói Số học sinh nói theo hướng đúng mẫu Số học sinh nói có lời nói hay SL % SL % SL % 2A (Lớp đối chứng) 30 3 10 19 63 8 27 2B (Lớp thực nghiệm) 31 0 0 9 29 22 71 Lớp 2A được dạy theo đúng nội dung sách giáo khoa và gợi ý hướng dẫn của sách giáo viên, học sinh được luyện nói một chiều ( nói lời xin lỗi hoặc đáp lại lời xin lỗi), lời nói của các em chủ yếu được vận dụng theo mẫu, học sinh chưa biết nói lời hay, lời nói khác mẫu. Các bài tập tình huống chỉ đề cập đến một tương quan giao tiếp (ngang vai), do đó học sinh khó vận dụng trong thực tế với những quan hệ giao tiếp thuộc vai trên và vai dưới. Lớp 2B được dạy theo phương pháp cải tiến, nội dung bài có sự điều chỉnh đủ 3 tương quan giao tiếp, có hệ thống câu hỏi gợi ý, hướng dẫn. Trên cơ sở quan sát tranh, học sinh được tiếp xúc với lời nói mẫu, dựa vào câu hỏi gợi ý học sinh biết nói những lời hay, lời đẹp khác mẫu để đáp lại lời xin lỗi. Ở mỗi bài tập tình huống, học sinh đựơc đóng vai từng cặp và đổi vai để được luyện nói cả hai chiều. Bên cạnh đó, bài tập tình huống còn giúp các em hiểu: Không chỉ khi làm điều không phải với người khác ta mới nói lời xin lỗi, mà ngay cả khi nếu không thực hiện được lời hứa hay muốn nhờ ai giúp đỡ một điều gì đó cũng cần nói lời xin lỗi. Cuối bài có bổ sung phần ghi nhớ giúp học sinh nắm vững, nhớ lâu nội dung bài học. Do đó, lớp học sôi nổi, thực hiện tốt phương pháp đổi mới: giáo viên hướng dẫn, học sinh hoạt động tích cực, lời nói phát triển phong phú. 5. Bài học kinh nghiệm. Người xưa thường ví von rằng: “Nếu tôi cho anh một con cá thì có thể nuôi sống anh một ngày, còn nếu tôi dạy anh cách câu cá thì có thể nuôi sống anh cả cuộc đời”. Đúng vậy, cách học có hiệu quả nhất là cách học bằng hoạt động suy nghĩ, tìm tòi và giải quyết vấn đề để phát hiện, chiếm lĩnh tri thức rồi vận dụng linh hoạt vào các tình huống khác nhau của cuộc sống. Thực tế giảng dạy cho thấy, với cùng một nội dung, cùng một phương tiện và điều kiện dạy học nhưng kết quả giờ dạy lại không giống nhau. Có tiết dạy, học sinh học tập hào hứng, tích cực và chủ động. Ngược lại, có tiết học hiệu quả không cao, học sinh máy móc và thụ động, chỉ biết làm theo những gì cô giáo truyền đạt mà không biết vận dụng linh hoạt. Như vậy, để một tiết dạy Tập làm văn lớp 2 có hiệu quả thì: - Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài chu đáo, phải tự trang bị cho mình một lượng kiến thức và lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp. - Các bài Tập làm văn dạng bài này đều có sự liên quan tới nhau, vì thế ở các tiết dạy giáo viên phải chú ý mối quan hệ để có được sự gắn kết hợp lý nhất. -Trong giờ học, giáo viên phải là người dẫn dắt để các em khám phá và tự chiếm lĩnh tri thức, phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. - Giáo viên phải rèn các em học sinh chủ động tiếp thu kiến thức, luôn tự đặt cho bản thân câu hỏi “Kiến thức này áp dụng vào thực tế như thế nào? Nếu gặp tình huống tương tự thì phải xử lý ra sao?...”. Đồng thời rèn kỹ năng nghe nói, nghe hiểu nhanh và hướng dẫn học sinh vận dụng kỹ năng đã học của dạng bài này vào các môn học khác. PHẦN KẾT LUẬN 1. Kết luận Sau khi tiến hành vận dụng những giải pháp đã trình bày ở trên vào giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 2 tôi thấy thực sự có hiệu quả. Học sinh học tập sôi nổi, nói và đáp lời bằng những lời nói hay, nói đẹp, có văn hoá, không còn lúng túng trả lời theo khuôn mẫu, thực hiện linh hoạt và sử dụng ngôn ngữ phong phú hơn. Các em áp dụng vào thực tế cuộc sống hàng ngày ở trường, gia đình, xã hội tốt hơn. Giáo viên thì cũng đã làm quen với cách nghiên cứu và soạn giảng theo phương pháp mới không còn lúng túng mà đã lựa chọn được các bài tập với nhiều hình thức yêu cầu khác nhau, giúp học sinh thực hành và phát huy tính sáng tạo. Không những vậy mà còn giúp các em học tốt các môn học khác và phát triển ngôn ngữ giao tiếp. Mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp 2 là phát triển kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong học tập và giao tiếp. Với học sinh lớp 2, việc dạy Tập làm văn chính là việc thực hiện yêu cầu về kiến thức, kĩ năng sử dụng tiếng Việt “Nói rõ ràng, mạch lạc. Biết nói lời tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, nhờ cậy, yêu cầu, thể hiện đúng vai và biết đổi vai trong giao tiếp.” Nội dung dạy Tập làm văn cho học sinh trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2 là vấn đề hoàn toàn mới mẻ với học sinh, khi đến trường các em được biết đến “chuẩn ngôn ngữ”, hoạt động nói năng trong học tập, trong vui chơi không chỉ diễn ra tự do theo một chiều mà các em phải biết nói năng theo đúng chuẩn văn hoá. Vì thế, việc rèn kĩ năng giao tiếp cho các em lớp 2 không chỉ dừng lại ở chỗ rèn cho học sinh kĩ năng nói mà phải hướng dẫn các em cách nói đúng, chọn lời nói hay, lời nói đẹp trong giao tiếp hàng ngày. Áp dụng những phương pháp đề xuất trên đây vào giảng dạy, tôi đã có được những giờ Tập làm văn đạt hiệu quả cao, không gây căng thằng, tạo sự hứng thú trong học tập. Trong giờ học, các em được làm việc nhiều, khuyến khích học sinh vận dụng những điều đã học vào trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày, vào việc giao tiếp. Giúp các em nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng mà còn phải biết được cách tự học. Đây chính là điều kiện thuận lợi nhất cho học sinh tự thể hiện bày tỏ ý kiến cá nhân, thảo luận, tranh luận hợp tác với bạn bè nhằm tự phát hiện ra kiến thức mới, giúp các em chủ động tự kiểm tra, đánh giá việc học tập của mình không chỉ thông qua kết quả học tập mà cả quá trình, động cơ, ý thức học tập, từ đó tự phát hiện những sai sót, hạn chế và tự khắc phục. Vì vậy, tôi thiết nghĩ nếu trong quá trình dạy học, nếu các thầy cô giáo quan tâm, chú trọng nhiều hơn đến việc rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh thì sẽ giúp ích rất nhiều cho các em trong cuộc sống hàng ngày. Mặt khác, việc rèn kỹ năng sống cho các em học sinh đang rất được chú trọng, nhất là trong nhịp sống hiện đại ngày nay thì việc bồi dưỡng cho các em các kỹ năng sống cơ bản là một việc làm rất thiết thực và có ý nghĩa. 2. Kiến nghị, đề xuất Qua thực tế giảng dạy cùng với sự đúc kết kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp 2, tôi có một số ý kiến đề xuất như sau: * Đối với Phòng, Sở GD- ĐT: - Cần tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng kiến thức và phương pháp dạy Tập làm văn cho giáo viên. * Đối với các nhà trường: - Tổ chức các tiết dạy mẫu phân môn Tập làm văn để giáo viên có cơ hội học tập kinh nghiệm lẫn nhau. - Nhà trường nên có các băng ghi âm hoặc clip những lời đối thoại mẫu mực để học sinh học tập được lời nói hay, lời nói đẹp. Trên đây là một số biện pháp “Rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập làm văn” mà tôi đã thực hiện khá hiệu quả trong các tiết Tập làm văn. Tuy nhiên những biện pháp thực hiện mà tôi đã đề xuất còn mang tính chủ quan của cá nhân. Vì vậy, tôi rất mong đựoc sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học và các đồng nghiệp để kinh nghiệm này thêm phần hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_giao_tiep_cho_hoc_sinh_lop.docx