Sáng kiến kinh nghiệm Quy trình lập dàn ý miêu tả đạt hiệu quả cho học sinh Lớp 5
Cơ sở lí luận chung
- Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý và ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
- Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Vốn từ ngữ của các em còn hạn chế nên khi viết văn thường bị lặp lại từ, câu văn lủng củng, thiếu hình ảnh, cảm xúc. Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả khi quan sát.
- Nhiều em không nắm được cấu trúc ngữ pháp nên sử dụng dấu câu tùy tiện, bài viết còn mắc nhiều lỗi chính tả, nhiều từ ngữ các em còn hiểu sai nghĩa nên không sử dụng đúng chỗ.
- Một số học sinh làm theo văn mẫu hoặc chỉ viết theo dàn bài mà giáo viên đã hướng dẫn lập. Chưa biết tích hợp các phân môn khác như: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Khoa học, Lịch sử và Đại lí vào tập làm văn... Chưa sáng tạo trong khi dùng từ đặt câu.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Quy trình lập dàn ý miêu tả đạt hiệu quả cho học sinh Lớp 5

m tiếng gà gáy, tiếng chim hót, tiếng người cười nói, Những từ có giá trị tượng hình như: đỏ chon chót, sâu thăm thẳm, rộng mênh mông,Các tính từ chỉ màu sắc như: vàng óng, vàng hoe, vàng xuộm,; xanh um, xanh thẳm, xanh lét,; đỏ ối, đỏ chon chót, đỏ hoe, tím ngắt, tím biếc, tím hoa cà,Các tính từ chỉ mùi vị: thơm ngát, thơm nức, thơm thoang thoảng,Thế giới âm thanh, hình tượng và màu sắc tạo cho bài văn miêu tả của các em thật hơn, sinh động hơn. - Rèn kĩ năng nhận biết các biện pháp tu từ qua từng bài văn, văn cảnh cụ thể. Học sinh được thường xuyên nhận biết và tìm hiểu giá trị thẩm mỹ của phép so sánh, nhân hoá trong các bài tập đọc, trong các bài văn gợi ý. Chúng đã tạo nên bức tranh sinh động với những gam màu ấn tượng bằng ngôn ngữ trong miêu tả. Vì vậy cần hướng dẫn và khuyến khích học sinh có thói quen sử dụng so sánh và nhân hoá trong viết văn miêu tả. 3.4. Giúp học sinh nắm vững đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả Ngoài việc giúp học sinh biết dùng lời văn phù hợp với yêu cầu về nội dung và thể loại cho trước, khi luyện tập giáo viên cũng cần lưu ý nhắc nhở các em nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định đối tượng miêu tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và cảm xúc của mình. Cụ thể: * Kiểu bài tả cảnh Cần xác định các yêu cầu sau: a) Xác định không gian, thời gian nhất định Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định học sinh cần biết lựa chọn trình tự quan sát. Việc quan sát có thể tiến hành ở những vị trí khác nhau nhưng vẫn phải có một vị trí chủ yếu làm cho cảnh được quan sát bộc lộ ra những điều cơ bản nhất của nó. Khi đã xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên có cái nhìn bao quát toàn cảnh đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng phần để quan sát. b) Xác định trình tự miêu tả Khi tả phải xác định một trình tự miêu tả phù hợp với cảnh được tả. Tả từ trên xuống hay từ dưới lên, từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong... là tuỳ thuộc đặc điểm của cảnh. c) Chọn nét tiêu biểu Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc điểm đó lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, ... trong cảnh để góp phần làm cho cảnh sinh động hơn, đẹp hơn. d) Tả cảnh gắn với cảm xúc riêng bằng nhiều giác quan Tả cảnh luôn luôn gắn với cảm xúc của người viết. Cảnh vật mang theo trong nó cuộc sống riêng với những đặc điểm riêng. Con người cảm nhận cảnh như thế nào sẽ đem đến cho cảnh những tình cảm như thế. Nhà thơ Lê Anh Xuân, trong niềm vui của ngày Tổ quốc hoàn toàn thống nhất, đất nước thoát khỏi ách ngoại xâm, bằng tâm trạng hạnh phúc nhất, ông đã thốt lên: “Bỗng thấy nội tôi trẻ lại Như thời con gái tuổi đôi mươi.” Đây chính là phần hồn của cảnh. Cảnh không có hồn sẽ trơ trọi, thiếu sức sống. e) Chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh Khi làm văn miêu tả cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so sánh hoặc nhân hoá để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như đang đứng trước cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết. Ví dụ: Sau đây xin trích một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm Đức (Sách Tiếng Việt 5, tập 1, trang 22): “Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây cao, rồi nhạt dần và như hoà lẫn với ánh sáng trắng nhợt cuối cùng.” Ta thấy câu văn miêu tả sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà lẫn” với “ánh sáng trắng nhợt”. Tác giả cũng đã dùng mắt để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối, đã dùng tai để nghe tiếng dế và dùng mũi để cảm nhận hương vườn và cũng đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế, khi viết: “Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen phủ dần lên mọi vật.” , “Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.”, “Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.”. g) Dàn ý chung *Mở bài: - Giới thiệu cảnh định tả (ngôi nhà, trường học, vườn hoa,...). - Cảnh đó ở đâu? Em tả nó vào thời điểm nào? Em có tham gia chứng kiến cảnh đó?... *Thân bài: - Tả những nét chung nổi bật của toàn cảnh: Những nét bao quát khi thoạt nhìn cảnh: Quang cảnh chung, cảm tưởng chung về cảnh. - Tả từng bộ phận của cảnh (theo trình tự hợp lí từ ngoài vào trong hoặc từ trên xuống dưới,...). + Chọn tả những nét tiêu biểu nhất, xác định trung tâm của cảnh cần miêu tả là gì? + Chú ý tả đường nét, màu sắc của cảnh vật. Sự liên quan giữa cảnh vật ấy với cảnh vật xung quanh nó. + Tả người, vật gắn với cảnh (nếu có). - Tình cảm, thái độ của người tả. *Kết bài: - Nêu cảm nghĩ của người viết trước cảnh được tả * Kiểu bài tả người Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi người đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở những đặc điểm riêng, chỉ người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng dẫn học sinh miêu tả người là giúp cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn gọn mà chân thực, sinh động về hình ảnh và hoạt động của người mình tả. Ví dụ: Trong bài văn “Người thợ rèn” (SGK lớp 5, tập 1, trang 123), tác giả miêu tả người thợ rèn đang làm việc: “Anh bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sống. Dưới những nhát búa hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, giãy lên đành đạch.”. Ta thấy tác giả quan sát rất kĩ và miêu tả sinh động làm nổi bật hình ảnh người thợ rèn như một người chinh phục dũng mãnh và thấy rõ quá trình biến thỏi thép thành một lưỡi rựa. Vì thế, để làm được bài văn tả người thành công, giáo viên cần giúp học sinh xác định các yêu cầu sau: a) Chú ý tả ngoại hình hoạt động Khi tả người cần chú ý đến tuổi tác, mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có sự phát triển về cơ thể, về tâm lý riêng biệt khác nhau và có những hành động thể hiện theo giới tính, thói quen sinh hoạt, hoàn cảnh sống. Khi miêu tả cần tập trung vào việc làm sao nêu được cái chung và cái riêng của con người được miêu tả. b) Biết cách quan sát Khi tả người, điều cần nhất là quan sát trực tiếp hoặc trò chuyện, trao đổi ý kiến với người đó. Quan sát khuôn mặt, dáng đi, nghe giọng nói, xem xét cách nói, cử chỉ, thao tác lúc làm việcđể rút ra nét nổi bật (chọn và quan sát người định tả trong thời gian chuẩn bị bài mới ở nhà). Ta cũng cần dùng cách quan sát gián tiếp là thông qua trí nhớ hoặc nhận xét của một người khác về người định tả để bổ sung những thông tin cần thiết. c) Tả kết hợp ngoại hình, tính nết, hoạt động Khi miêu tả có thể tách riêng từng mặt, từng bộ phận để tả nhưng để nội dung bài văn miêu tả đạt được sự gắn bó, súc tích ta nên kết hợp tả ngoại hình, tính nết đan xen với tả hoạt động. d) Tả những nét tiêu biểu bằng tình cảm chân thật của mình Khi tả người, điều quan trọng là cần tả chân thật những nét tiêu biểu về người đó, không cần phải tô điểm người mình tả bằng những hình ảnh hoa mĩ, vẽ nên một hình ảnh toàn diện. Làm như vậy bài văn sẽ trở nên khuôn sáo, thiếu sự chân thật làm người đọc cảm thấy khó chịu. Giáo viên cần lưu ý học sinh rằng, trong mỗi con người ai cũng có chỗ khiếm khuyết nhưng nét đẹp thì bao giờ cũng nhiều hơn (đẹp về hình thể, đẹp về tính cách, đẹp về tâm hồn.). Nếu học sinh phát hiện, cảm nhận được và biết tả hết các đặc điểm đó thì sẽ làm cho bài văn miêu tả của các em sinh động, hồn nhiên đầy cảm xúc và người đọc dễ chấp nhận hơn. Ví dụ: Trong bài văn tả “Cô Chấm” (sách Tiếng Việt 5, tập 1, trang 156) nhà văn Đào Vũ đã viết: “Chấm không phải là cô con gái đẹp, nhưng là người mà ai đã gặp thì không thể lẫn lộn với bất cứ một người nào khác.” “Chấm cứ như một cây xương rồng. Cây xương rồng chặt ngang chặt dọc, chỉ cần cắm nó xuống đất, đất cằn cũng được, nó sẽ sống và sẽ lớn lên. Chấm thì cần cơm và lao động để sống .” “Chấm mộc mạc như hòn đất. Hòn đất ấy bầu bạn với nắng với mưa để cho cây lúa mọc lên hết vụ này qua vụ khác, hết năm này qua năm khác...” e) Dàn ý chung *Mở bài: - Giới thiệu người sẽ tả: Em được gặp người ấy ở đâu? Trong thời gian nào? Cảm xúc ban đầu của em về người đó như thế nào?... *Thân bài: - Tả hình dáng: + Tả bao quát về tuổi tác (già hay trẻ), tầm vóc (cao lớn hay nhỏ nhắn), dáng điệu (duyên dáng, nhanh nhẹn hay chậm chạp), nghề nghiệp (bác sĩ, công nhân,...), cách ăn mặc,... + Tả chi tiết: Những nét nổi bật nhất (khuôn mặt, mái tóc, đôi mắt, cái miệng, làn da, chân tay,...) - Tả tính tình- hoạt động: + Tính tình của người đó như thế nào? (chất phác, vui nhộn hay dễ cáu gắt,...). Giọng nói ra sao? (nhẹ nhàng hay sang sảng), cử chỉ, điệu bộ,... Cách cư xử với người khác (ân cần, chu đáo,...), việc làm bộc lộ rõ rệt đạo đức, tình cảm và tính nết của người được tả. + Hoạt động: Tả các việc làm cụ thể: người ấy đang làm gì? Cách làm như thế nào? à Chú ý: Khi tả người, cần làm nổi bật các đặc điểm về lứa tuổi, tác phong, tính tình, hình dáng cho phù hợp với nghề nghiệp, hoàn cảnh riêng của mỗi người; cần kết hợp tả hoạt động, tính tình và đôi nét về hình dáng. *Kết bài: Cảm nghĩ cuối cùng của em về người đó (ấn tượng sâu sắc, ảnh hưởng của người đó đối với bản thân...) 4. Kết quả nghiên cứu Qua quá trình thực nghiệm, tôi thấy việc sử dụng các biện pháp trên đã đem lại kết quả khá rõ rệt. Từ chỗ bài làm của học sinh còn nghèo nàn, có chỗ từ ngữ sử dụng chưa chính xác, không sát thực, bố cụ c không rõ ràng, bài sơ sài, câu văn thiếu sinh động, thiếu hấp dẫn, nay bài làm của các em đã có những câu văn miêu tả hay với việc sử dụng các từ gợi tả, gợi cảm, với các biện pháp tu từ. Dù chưa đạt được đến mức thành thạo, nhuần nhuyễn nhưng đã có sự sáng tạo linh hoạt, câu văn mượt mà. Làm tốt các biện pháp trên tôi còn đạt được một mục đích nữa là giúp các em học môn Tập làm văn nhanh hơn, dễ hiểu hơn, các em ham thích môn học, và đặc biệt không sợ sệt khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Kết quả cụ thể như sau: XẾP LOẠI TRƯỚC KHI VẬN DỤNG SKKN SAU KHI VẬN DỤNG SKKN Số bài Tỉ lệ (%) Số bài Tỉ lệ (%) Điểm 9-10 3 7,9% 10 26,3 % Điểm 7-8 10 26,3 % 19 50 % Điểm 5-6 18 47,4 % 6 15,8 % Điểm 3-4 5 13,2 % 3 7,9 % Điểm 1- 2 2 5,2 % 0 0 % C: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Thật khó có thể đưa ra một mô hình khuôn mẫu chung cho phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn nói chung và lại càng khó hơn khi tìm ra khuôn mẫu cho từng kiểu bài nói riêng. Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ nhoi nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 5 làm được bài văn miêu tả sinh động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu soạn giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Thầy cô giáo đã miệt mài, tận tuỵ thì việc mong muốn có nhiều học sinh giỏi văn sẽ không còn là khó. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học như trên, học sinh lớp tôi đã có chuyển biến đi lên về chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. Có thể nói, bước đầu thành công trong việc dạy Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở các năm sau, với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng nội dung đề tài này chưa có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của giáo viên mà thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì bây giờ ta dốc hết tâm huyết vào, tận tuỵ với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì chắc chắn sẽ gặt hái được thành công. 2. Khuyến nghị . 2.1. Đối với nhà trường + Cần tạo điều kiện, quan tâm hơn nữa trong việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên như tổ chức các chuyên đề cấp trường, trao đổi kinh nghiệm, phương pháp dạy tập làm văn... + Tạo điều kiện cho các em hoà nhập với thiên nhiên, đưa vào các chương trình sinh hoạt tập thể những trò chơi, những nội dung nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ, các trò chơi dân gian, các bài đồng dao,. + Khuyến khích học sinh đọc sách bằng cách: thư viện trong nhà trường phải hoạt động hiệu quả, lượng sách phong phú, đầy đủ chủng loại, quân tâm nhiều đến sách văn học,. Bố mẹ thường xuyên đưa con đến các hiệu sách, định hướng việc chọn sách cho con, mua sách thưởng cho con mỗi khi con có thành tích tốt, 2.1. Đối với Phòng GD&ĐT + Cần trang bị thêm cho giáo viên một số tài liệu tham khảo cần thiết về môn Tiếng Việt. Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề cụm môn Tiếng Việt và phương pháp dạy môn Tiếng Việt ở phân môn Tập làm văn. 2.3. Đối với Sở GD&ĐT + Cần điều chỉnh phân phối chương trình Tập làm văn lớp 4-5 để có thêm số tiết Tập làm văn viết và trả bài. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà tôi xin được trình bày cùng bạn bè đồng nghiệp. Những ý kiến đó ít nhiều mang tính chủ quan của bản thân vì thế chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Ba vì ngày 20 tháng 5 năm 2021 Tác giả Ngô Thị Hậu TÀI LIỆU THAM KHẢO * Phương pháp dạy học tiếng Việt của PGS - TS Lê Phương Nga, Nguyễn Trí. * Sách giáo viên và sách giáo khoa lớp 5. * Chuyên đề bồi dưỡng Văn - Tiếng Việt lớp 5 của Nguyễn Thị Kim Dung, TP. HCM. * Thơ với lời bình dành cho học sinh tiểu học của NXB GD. * Văn miêu tả và phương pháp dạy học văn miêu tả của Nguyễn Trí. * Những bài văn chọn lọc lớp 5 của NXB GD. * Luyện tập cảm thụ văn học ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục * Tài liệu trên INTERNET MỤC LỤC STT Nội dung Trang A ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1 Lý do chọn đề tài 1 2 Mục đích nghiên cứu 1 3 Khách thể, đối tượng nghiên cứu 1 4 Phạm vi nghiên cứu 2 5 Phương pháp nghiên cứu 2 B GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2 1 Cơ sở lí luận của quy trình lập dàn ý miêu tả hiểu quả cho học sinh lớp 5 2 1.1 Cơ sở lí luận chung 2 1.2 Một số khái niệm cơ bản 3 1.3 Đặc trưng của phân môn Tập làm văn 3 1.4 Vị trí của phân môn Tập làm văn 3 2 Thực trạng quy trình lập dàn ý miêu tả đạt hiểu quả cho học sinh lớp 5 3 2.1 Giới thiệu đôi nét về trường tôi đang công tác 3 2.1.1 Thuận lợi 3 2.1.2 Khó khăn 3 2.2 Thực trạng 3 2.3 Nguyên nhân 4 3 Một số biện pháp quy trình lập dàn ý miêu tả đạt hiểu quả cho học sinh lớp 5 4 3.1 Chọn cách tổ chức dạy học sao cho đạt hiệu quả cao nhất 4 3.2 Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát , ghi chép 6 3.3 Làm giàu và luyện kĩ năng dùng từ trong văn miêu tả 7 3.3.1 Làm giàu vố từ cho học sinh 7 3.3.2 Rèn kĩ năng dùng từ cho học sinh 8 3.4 Giúp học sinh nắm vững đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả 9 4 Kết quả nghiêm cứu 13 PHẦN 3 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 13 1 Kết luận 13 2 Khuyến nghị 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC * Ví dụ một số bài viết của học sinh trước khi thực hiện đề tài: Bài 1: Bài 2: * Ví dụ một số bài viết của học sinh sau khi thực hiện đề tài: Bài 1: 32 Bài 2: Bài 2:
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_quy_trinh_lap_dan_y_mieu_ta_dat_hieu_q.docx