Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp rèn chữ đẹp, giữ vở sạch cho học sinh Lớp 1

Làm thế nào để học sinh viết chữ đẹp, đúng mẫu cỡ chữ?

-Tôi hướng dẫn tỉ mỉ trong giờ tập viết ( nhất là lớp 1) làm cho học sinh biết được thế nào là 1 ô li, 2 ô li, 2, 1/2 ô li trong các dòng kẻ ở vở. Những chữ nào có chiều cao 1 . 2 , 2, 1/2 , 3, 4, 5 li . Các em nắm được các dòng kẻ li và chiều cao của chữ thì nhất định viết đúng cỡ chữ.

-Tôi đưa ra chữ mẫu cho học sinh quan sát, sau đó viết mẫu, hướng dẫn học sinh viết từng nét trong chữ, độ cao nét hất, khoảng cách, cuối cùng là các em được luyện viết bảng rồi viết vở.

-Hàng ngày, giáo viên phải tự giác rèn luyện chữ viết vở, tập viết chữ viết trên bảng đen. Luôn luôn nêu cao tác phong mẫu mực khi viết trên bảng, khi cho điểm, ghi lời phê trong bài làm của học sinh, điểm số và lời phê phải ghi đúng chỗ qui định.

doc 19 trang Thu Nga 08/05/2025 330
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp rèn chữ đẹp, giữ vở sạch cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp rèn chữ đẹp, giữ vở sạch cho học sinh Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp rèn chữ đẹp, giữ vở sạch cho học sinh Lớp 1
 các nét trong một chữ cái. Bước sang 2 tuần đầu của tháng thứ 2, tôi nâng lên nhận biết các vần khó hơn và hoàn chỉnh thao tác viết 1 chữ ghi tiếng.
- Những khó khăn có tính chất cá biệt của một số em phải có kế hoạch chăm sóc riêng.
- Về tốc độ đọc cho học sinh viết cũng phải có kế hoạch tăng dần, có ý thức theo dõi, phân biệt chia số tiếng đọc trong một thời gian nhất định, không tuỳ tiện, không để tình trạng học sinh viết chậm phải nhìn bạn mà chép.
	Với một số biện pháp đã nêu trên tôi đã vận dụng linh hoạt trong các giờ lên lớp cụ thể sau:
1- Trong giờ tập đọc:
	Tôi cố gắng đọc thật chuẩn ( phát âm rõ ràng, đọc diễn cảm) để các em chú ý lắng nghe.
Luôn chú ý đến các em đọc yếu, gọi đọc thường xuyên, uốn nắn kịp thời những sai sót nhỏ nhất là phát âm từ, tiếng có âm đầu dễ lẫn lộn như l/n, ch/tr, r/d, s/x... và một số vần khó đọc. Học sinh phải đọc đi đọc lại nhiều lần.
- Đối với lớp 1 ở học kỳ I là học vần giáo viên phải hướng dẫn một cách tỉ mỉ để học sinh nhận biết được chữ ghi âm, cấu tạo vần, tiếng để phát âm đúng, đọc đúng và viết đúng.
2- Trong giờ tập viết:
	Tôi đưa ra chữ mẫu cho học sinh quan sát - phân tích chữ cái để nắm được chữ gồm mấy nét là những nét gì? Các nét chữ đó như thế nào? Sự liên kết phối hợp của các nét ra sao? Điểm đặt bút, điểm dừng bút của chữ ở vị trí nào trên dòng kẻ.
	- Phân tích vần, từ và dòng chữ viết ứng dụng nhằm củng cố lại một số chữ cái viết khó hoặc các chữ cái mà học sinh hay viết sai. Sau đó giáo viên viết mẫu - giáo viên giảng giải và minh hoạ cách viết: Viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ để học sinh nhìn thấy cách đưa bút như thế nào? thứ tự viết các nét ra sao, dấu phụ của từng con chữ và vị trí của dấu thanh.
	Đối với những nét chữ viết khó ( hoặc nét nối) tôi phối hợp giảng giải về cách viết hoặc có thể phân tích và viết mẫu trích đoạn những nét chữ đó ra phần bảng phụ.
	Học sinh được luyện tập viết trên bảng con và viết trên bảng lớp theo từng chữ mà giáo viên yêu cầu. Khi nhận xét về chữ của mình và chữ của bạn các em lấy chữ mẫu của cô giáo để sửa chữa những chữ viết sai. Cuối cùng học sinh viết bài vào vở: Tôi hướng dẫn từng học sinh viết, sửa chữa chữ sai, tư thế ngồi viết, cách cầm bút.
3- Trong giờ chính tả:
	Khi đọc mẫu bài ( đoạn) viết, giáo viên phải đọc chậm. Trước khi viết bài giáo viên nhắc nhở học sinh:
	- Yêu cầu về chữ: viết chữ phải đúng kích cỡ 2 li, viết các nét chữ đều đặn, tròn trịa, nối liền các nét trong 1 chữ, các nét khuyết kéo thẳng, khoảng cách các nét chữ trong từng dòng đều nhau.
	- Yêu cầu cần đạt về điểm: Điểm đạt yêu cầu là điểm 9, 10.
+) Qui định trong lớp:
	- Bài đạt điểm 7,8: Mỗi chữ viết sai viết lại 1 dòng
	- Bài đạt điểm 5,6: Viết lại cả bài 2 lần
	- Bài viết dưới 5 điểm: Viết lại cả bài 3 lần
Từ kết quả điểm số để các em thấy cần chú ý cẩn thận khi viết để đạt được điểm đó.
	Sau đó các em luyện viết trên bảng, trên giấy nháp từng chữ có âm đầu, có vần dễ bẩn. Với các em hay viết sai giáo viên phải uốn nắn kịp thời.
* Trong khi học sinh viết bài: Người thầy giáo phải chú ý đọc to, phát âm chuẩn, đúng tốc độ ( đọc 2 lần 1 câu) không đọc đi đọc lại nhiều lần để học sinh phải chú ý viết bài cho kịp cho đúng.
Người thầy giáo phải thường xuyên quan sát theo dõi từng em viết chậm, viết sai chính tả để nhắc nhở, uốn nắn cho các em ngay.
Trong giờ học khác người thầy đều phải nhắc nhở các em trình bày chữ viết đúng qui định, viết nắn nót chữ cho đẹp, kẻ chân đề mục, kẻ hết bài, kẻ hết ngày, kẻ hết tuần đúng quy định.
+) Qui định chung: Kẻ hết bài: “ cách 2 ô từ ngoài lề vào và 2 ô ở cuối dòng), kẻ hết ngày ( từ lề vở đến hết dòng), kẻ hết tuần (sát ngay từ mép giấy đến hết) đều kẻ hết 1 dòng kẻ lớn ( 5 dòng kẻ ngang hay 5 ô ly).
	Với những em hay viết sai chính tả, viết xấu các chữ cái có chiều cao 5 ô ly, có nét khuyết trên như chữ: h, b, l, k... có nét khuyết dưới như chữ g; các chữ có độ cao 4 ô ly như chữ d, đ các chữ có chiều cao 3 ô ly như chữ l, chiều dài 3 ô ly như chữ p, các chữ có chiều cao 2 ô ly như chữ o, m, n ... nét chữ viết hay nhọn đầu, nét hất bút thường bị co hoặc choãng quá giáo viên nên cho học sinh viết lại nhiều lần, nhiều dòng, bao giờ được mới thôi. Còn các em khác có ý thức tự giác rèn chữ hơn, giáo viên thường xuyên kiểm tra đánh giá bằng điểm số.
	Sau mỗi tháng giáo viên lại cho thi viết 1 bài chính tả, một bài tập viết “ Viết vần, tiếng, từ, câu “ (ở học kỳ I). Viết đoạn văn, bài thơ ngắn (ở học kỳ II và cuối năm). Mục đích qua mỗi lần thi như vậy đạt được những yêu cầu sau:
	- Học sinh biết viết đúng cỡ chữ, mẫu chữ, nét chữ.
	- Viết đẹp, đúng các chữ hoa, trình bày bài sạch đẹp khoa học
	- Rèn kỹ năng viết, tốc độ viết nhanh, cẩn thận.
* Qua mỗi bài thi viết giáo viên chọn ra những bài viết đúng nhất, đẹp nhất, mẫu mực nhất để cả lớp cùng quan sát và học tập. Cho các em tự nhận xét, đánh giá, xếp loại về các bài viết tốt đó theo tiêu chuẩn xếp loại về rèn chữ, để từng em tự rút ra bài học cho bản thân mình. Đồng thời, giáo viên cho trưng bày các bài đó lên bảng ( bài hay điểm giỏi) để các em đó phấn khởi, tự tin và phát huy còn các em khác lấy đó làm gương học rèn chữ cho mình và cùng thi đua.
	Bên cạnh đó, giáo viên nên xếp các em có ý thức rèn chữ, giữ vở thường xuyên ngồi cạnh những em viết chữ xấu hay sai lỗi chính tả. Nhằm mục đích các em khá này nhắc nhở, giúp đỡ các bạn này và để các bạn viết xấu, ẩu quan sát và học tập bạn mình.
	Mặt khác, giáo viên đã kết hợp với phụ huynh học sinh rèn chữ viết cho các em ở nhà. Gia đình kiểm tra, nhắc nhở các em thường xuyên trao đổi lại với giáo viên chủ nhiệm.
+) Giữ vở sạch: Để cho học sinh (nhất là học sinh lớp 1, lớp 2) giữ được vở bộ vở sạch, từ đầu năm đến cuối năm học là một vấn đề khó. Muốn làm được thì vai trò của người giáo viên rất quan trọng. Trước hết cặp sách vở, bộ hồ sơ của giáo viên phải thật chuẩn mực.
Năm học 2010 - 2011 học sinh trong toàn thành phố được sự quan tâm chu đáo của Phòng GD - ĐT Việt Trì vở các em được bọc bìa nilon trong rất đẹp. Một nhân tố cũng không kém phần quan trọng đó là phụ huynh học sinh, để tất cả học sinh của lớp mình giữ trọn vẹn bộ vở vừa sạch, vừa đẹp tôi đã phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh bằng cách: Cùng bàn bạc thống nhất mua bìa nilon bọc vở cho các em. Về bút viết chọn loại bút có nét vừa phải, không to, không nhỏ quá. Cả lớp dùng chung 1 loại mực. Khi học sinh sử dụng bút chì ( học kỳ I của lớp 1) thì cả lớp dùng bút chì 2B ngòi chì vừa phải. Trong giai đoạn này giáo viên khi lên lớp luôn có sẵn 1 cái gọt chì. Nếu có em nào bút bị gãy ngòi là tôi xử lý được ngay. Đến khi học sinh viết bút mực tôi hướng dẫn tỉ mỉ về cách sử dụng bút: cách mở nắp bút, bơm mực, khi bơm xong dùng giẻ sạch lau khô rồi nắp bút lại và vặn cho vừa khít, tránh vặn chặt quá làm hỏng bút. Nếu ngòi bút bị tắc mực, các em dùng giẻ sạch vuốt nhẹ vào ngòi rồi mực sẽ ra. Tuyệt đối không cầm bút vẩy ra lớp ra vở làm bẩn vở, bẩn lớp.
	Hằng ngày tôi luôn giáo dục các em giữ gìn nâng niu và trân trọng quyển vở của mình vì đó chính là sản phẩm lao động của các em và cũng là thể hiện sự kính trọng thầy cô và bố mẹ các em nữa. Mỗi khi mở vở tôi luôn nhắc các em nhẹ nhàng dùng 2 đầu ngón tay lật từng trang. Với các lớp 1, 2 tôi yêu cầu mỗi quyển vở ghi của các em phải có một mảnh bìa cứng cặp vào trang vở đang viết để khi cần các em sẽ mở được ngay mà không cần phải lật từng trang để tìm. Hơn nữa, tờ bìa đó khi viết còn giúp các em kê ở dưới tay không làm bẩn vở (nhất là những em ra mồ hôi tay hoặc tay bị bẩn).
	Khi viết tay trái đặt nhẹ lên trang vở, giữ cho mặt giấy phẳng. Về mùa đông, các em mặc áo ấm, tay áo thường cộm lên, tôi hướng dẫn các em nhấc hẳn tay lên rồi từ từ đặt tay xuống trang vở tránh bị quăn góc. Nếu nhỡ trang nào bị quăn thì nhẹ nhàng vuốt ra cho phẳng.
	Khi các em cất vở vào cặp, để tránh nhàu nát, quăn góc tôi hướng dẫn các em cách đưa phần gáy của vở vào trước và xuống dưới cặp. Khi nào học sinh viết hết quyển vở tôi lại cất vào tủ đựng đồ dùng học tập của lớp.
* Mỗi tháng giáo viên đều chấm VSCĐ cho học sinh cả lớp qua việc chấm vở giáo viên tìm ra những gương tốt trong lớp về: chữ viết, trình bày bài, sáng tạo khi làm bài để làm gương cho cả lớp đồng thời nhắc nhở chấn chỉnh những em còn sai sót.
	Mặt khác, giáo viên đã kết hợp với phụ huynh học sinh rèn chữ viết cho các em, thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm.
	Cuối năm học giáo viên chọn 10 bộ vở sạch, đẹp nhất lớp trưng bày trong tủ đồ dùng của lớp và được phụ huynh trong lớp ( trong phiên họp tổng kết năm học) lần lượt trao tay nhau xem. Thật tự hào và phấn khởi, cùng thống nhất có phần thưởng tặng các em đó.
	Với các em học sinh trong lớp biện pháp trên để có sự chuyển biến rõ rệt về “ rèn chữ, giữ vở”.
Chương IV: Kết quả sau khi ứng dụng các biện pháp
1. Sau khi thực hiện các biện pháp trên, kết quả đạt được:
	Cho đến nay hâù hết các em học sinh trong lớp đều viết đúng các cỡ chữ, nét chữ đều đặn, tròn trịa, sáng sủa.
2. Kết quả cụ thể: 
	Số em viết đúng, đẹp, trình bày sạch sẽ nhiều hơn so với cùng kỳ năm học trước ( 20 em), số em viết chưa thật đẹp song cũng đã viết đúng cỡ chữ 2li, viết đủ, rõ nét, trình bày sạch đẹp ( 10 em).
	Số còn lại: ( 5 em) đã có nhiều cố gắng trong việc viết chữ, song trình bày đôi chỗ còn bẩn, nên tôi vẫn tiếp tục nhắc nhở và giúp đỡ các em rèn luyện tiếp ( Hiện nay đang là tháng thứ 4 cuả năm học, tôi đã chấm VSCĐ cho các em 3 lần).
Bảng so sánh
Tháng 9:
Số hs của lớp
Vở loại A
Vở loại B
Vở loại C
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
35
28
79,78%
7
20,22%
0
0

Tháng 10:
Số hs của lớp
Vở loại A
Vở loại B
Vở loại C
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
35
30
85,7%
5
14,3%
0
0

Tháng 11:
Số hs của lớp
Vở loại A
Vở loại B
Vở loại C
Tổng số
%
Tổng số
%
Tổng số
%
35
31
88,56%
4
11,44%
0
0

Tiêu chuẩn xếp loại tôi căn cứ vào cách đánh giá mà chuyên môn nhà trường đã hướng dẫn. Mỗi lần chấm vở xong tôi nhận xét cho những học sinh xếp loại B biết rõ lý do vì sao còn chưa đạt loại A. Những em xếp loại A được tôi tuyên dương và chọn những bộ vở sạch đẹp nhất cho các bạn cả lớp cùng xem học tập theo tạo không khí phấn khởi cùng thi đua.
	Kỳ thi vở sạch chữ đẹp “ năm học 1997 - 1998” lớp tôi chủ nhiệm được chọn 3 bộ vở đi thi thành phố đạt giải nhất.
	Trong năm học 2010 - 2011 qua kỳ thi “ vở sạch chữ đẹp” vòng trường lớp tôi có gần 90% bộ vở xếp loại A, đứng đầu khối . Đó cũng là kết quả và thành công của tôi đã vận dụng trong phương pháp rèn chữ giữ vở cho học sinh.
Chương V: Kết luận chung
	Một điều tôi tự thấy rằng không thể thiếu và bỏ qua được của người giáo viên tiểu học nói chung và của người giáo viên lớp 1 nói riêng, trong giảng dạy hàng ngày cũng như trong việc làm vở sạch chữ đựp đòi hỏi công phu tỉ mỉ đã vậy còn phải hiểu rõ công việc mình làm và đối tượng của mình phụ trách nữa. Có hiểu cặn kẽ tình hình, có tìm ra được nguyên nhân của tình hình đó, thì mới có những biện pháp phù hợp. Hơn nữa người giáo viên phải luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo “ cô làm thế nào thì trò làm thế nấy”. Chính vì vậy, tôi luôn thận trọng, cẩn thận trong từng việc làm của mình. Từ khâu đọc mẫu trong các giờ tập đọc đến cách trình bày chữ viết, chữ số trên bảng tôi luôn cố gắng: Đọc chuẩn, viết nắn nót, rõ ràng, đúng, đẹp để chỉ rõ cho học sinh biết thế nào là viết nét chữ tròn đều thẳng nét.
Khi chấm bài cho học sinh, giáo viên cần phải lưu ý về cách viết điểm số cũng như lời nhận xét trong bài của học sinh phải rõ ràng đúng như chữ số, mẫu chữ, cỡ chữ mà người giáo viên đã rèn cho học sinh của mình để các em học tập và noi theo.
	Vì vậy trong từng giờ học tôi chỉ nhắc nhở các yêu cầu, học sinh biết mà thực hiện đúng ngay. Việc rèn chữ giữ vở tôi đã thực hiện từ những năm khi học sinh mới vào lớp 1. 
	Song lên lớp , chương trình dài kiến thức khó hơn, các em phải viết nhiều hơn cộng với sự thiếu tự giác, kiên trì chắc chắn không tránh khỏi sự vội vàng, cẩu thả. Nếu giáo viên không kiểm tra, nhắc nhở và uốn nắn thường xuyên, thì các em khó có thể viết chữ đúng, đẹp, sạch sẽ, đúng với yêu cầu được.
	Việc rèn chữ, giữ vở sạch đẹp thường xuyên còn tạo điều kiện cho học sinh học tốt các môn khác. Vì vậy, việc rèn chữ giữ vở cho học sinh là một việc rất cần thiết, thường xuyên của giáo viên bậc tiểu học nói riêng và của tất cả mọi giáo viên nói chung.
PHẦN III : BÀI HỌC KINH NGHIỆM
	Trên cơ sở thực tiễn và phân tích kết quả đối chiếu với yêu cầu đặt ra tôi đã thực hiện được phần lớn.
	- Điều tra thực tế và phân tích kết quả đối chiếu với yêu cầu đặt ra nắm bắt tình hình cụ thể.
	- Đánh giá đúng mức học sinh, động viên kịp thời khuyến khích và gây hứng thú, lòng tự tin cho học sinh trong học tập nhất là việc rèn chữ giữ vở cho học sinh tiểu học.
	- Kết hợp giữa phụ huynh, nhà trường và đồng nghiệp để nâng cao chất lượng “ rèn chữ giữ vở” cho học sinh.
	- Phải thường xuyên hàng ngày, hàng giờ để học sinh luôn có ý thức chăm lo và giữ gìn vở sạch, chữ đẹp của mình.
	Trên đây là những việc làm tôi đã tiến hành trong quá trình rèn chữ giữ vở cho học sinh bậc tiểu học. Bằng phương pháp: Thầy hướng dẫn, trò tự giác, kiên trì thực hành trong nhiều năm qua tôi thấy có hiệu quả, nên tôi mạnh dạn nêu lên để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo.
	Những kinh nghiệm này đã được hội đồng khoa học nhà trường xác định và nghiệm thu, đánh giá cao và được xác nhận vào tháng 9/2009 được áp dụng rộng rãi ở các khối trong nhà trường.
	Rất mong các đồng chí, các bạn đồng nghiệp đóng góp thêm cho tôi những ý kiến chân thành để tôi tiếp tục làm tốt việc tôi đã lựa chọn và đã làm để đạt được kết quả tốt hơn.
* ý kiến đề xuất:
	- Các cấp quản lý cần quan tâm hơn nữa đến phong trào “ Rèn chữ - giữ vở” cho học sinh tiểu học.
	- Tham mưu với Bộ giáo dục - đào tạo để thống nhất dòng kẻ, hướng dẫn viết trong sách giáo khoa và vở tập viết là 5 li tạo điều kiện cho học sinh viết đúng, đẹp và nhanh.
	- Mở chuyên đề: “ Rèn chữ - giữ vở ở mỗi trường tiểu học
	- Các trường có kế hoạch rèn chữ cho giáo viên để cùng với mọi hoạt động trong nhà trường phong traò “ vở sạch, chữ đẹp” ở mỗi trường trong thành phố, trong tỉnh thực sự trở thành nếp nghĩ và hành động thường xuyên của tất cả cán bộ, giáo viên, học sinh thì phong trào sẽ phát triển mạnh nữa và vững chắc.
Người viết
 Kim Thị Ngọc Diệp
MỤC LỤC:
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1- Tên sáng kiến kinh nghiệm
2- Lý do chọn sáng kiến
3- Đối tượng nghiên cứu
4- Phương pháp nghiên cứu
5- Nhiệm vụ của sáng kiến
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Điều tra khảo sát
Chương III: Các biện pháp đã thực hiện
Chương IV: Kết quả sau khi ứng dụng các biện pháp
Chương V: Kết luận chung
PHẦN III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
+ 5 qui định về “ rèn chữ giữ vở “ đối với giáo viên và học sinh của trường tiểu học Tiên Cát
+ Từ điển chính tả
+ Từ điển sách giáo khoa tiếng Việt
+ Qui định về “rèn chữ giữ vở “ của Sở GD - ĐT 
+ Phương pháp giáo dục môn tập viết, phân môn chính tả
+ Yêu cầu cơ bản về kiến thức kỹ năng môn tiếng Việt tiểu học
+ Yêu cầu về bốn kỹ năng: “ Nghe, nói, đọc, viết “ Bài phát biểu của đồng chí Phạm Văn Đồng.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_ren_chu_dep_giu_vo_sach_ch.doc