Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học phân môn Tập làm văn Lớp 3

Việc dạy của giáo viên:

Qua thực tế dự giờ thăm lớp của giáo viên trong khối.

- Cách tổ chức các hoạt động trong giờ tập làm văn còn lúng túng. Giáo viên chỉ biết dựa vào sách giáo viên để dạy nên bài nào cũng giống bài nào. Giáo viên chưa thực sự đầu tư vào chất lượng bài soạn.

- Khả năng diễn đạt của giáo viên còn hạn chế, còn “bí từ” khi giảng. Kiến thức bài còn bó hẹp hoàn toàn trong sách giáo khoa.Thậm chí có giáo viên khi kể cho học sinh nghe nội dung câu chuyện thì vẫn chưa nắm được cốt lõi của truyện mà còn mang tích chất “đọc truyện”.

- Khi dạy cho học sinh “Kể hay nói, viết về một chủ đề” giáo viên nêu nội dung câu hỏi ở SGK hoặc SGV cho học sinh trả lời bằng miệng rồi yêu cầu học sinh viết về chủ đề đó. Do vậy mà hiệu quả giờ dạy chưa cao, học sinh viết bài chưa đạt yêu cầu đặc biệt là những học sinh yếu.

Việc học của học sinh:

- Học sinh lớp 3 vốn ngôn ngữ của các em chưa nhiều: các em còn mải chơi nhiều hơn học. Việc tiếp thu bài còn thụ động theo cách truyền tải của giáo viên.

- Môn Tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại học văn, lười suy nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, viết bài qua loa cho xong chuyện. Cách dùng từ đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý.

- Việc tổ chức học trên lớp của giáo viên chưa phát huy được vốn từ của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin trong học tập.

Chính vì những lý do trên mà việc học văn ở lớp Ba còn hạn chế. Trong tiết “Nghe - kể chuyện” nhiều em còn chưa kể lại được truyện mặc dù truyện đó ngắn, tình tiết ít. Khi “Kể hay nói, viết về một chủ đề” nào đó theo các gợi ý ở SGK thì các em diễn đạt còn kém nhất là học sinh yếu không nói (viết) được.

doc 15 trang Thu Nga 01/10/2025 340
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học phân môn Tập làm văn Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học phân môn Tập làm văn Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học phân môn Tập làm văn Lớp 3
nhân vật.
 - Giáo viên kể chuyện lần hai, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện trong khung còn trống của sơ đồ(theo nhóm 4) trên phiếu học tập.
 Ví dụ:
Trên xe buýt
Anh thanh niên
Tay ôm mặt
Cháu không nỡ nhìn
Bà cụ
- Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện trong nhóm.
- Gọi đại diện các nhóm kể chuyện trước lớp.
- Cả lớp theo dõi nhận xét diễn biến của truyện, giáo viên bổ sung. 
- Cho học sinh trao đổi về tính khôi hài của truyện. 
- Cho học sinh liên hệ thực tế bản thân: Nếu gặp người như anh thanh niên trên chuyến xe đó thì em sẽ làm gì?
- Giáo viên nhận xét chung.
 *Một số lưu ý khi dạy dạng bài trên. 
- Có rất nhiều cách để dạy dạng bài “Nghe - kể lại chuyện”. Giáo viên có thể tuỳ vào tình hình của lớp, trình độ học sinh để chọn cách dạy phù hợp nhất.
- Cho dù dạy theo cách nào, giáo viên cũng phải có sự chuẩn bị bài trước (Tranh ảnh, xây dụng mạng câu chuyện hoặc phiếu bài tập) để giờ học sinh động, gây hứng thú học tập cho học sinh hơn.
- Giao việc cho học sinh rõ ràng đặc biệt là khi hoạt động nhóm và nên theo dõi kèm thêm cho học sinh yếu, tạo cho các niềm tin, mạnh dạn hơn trong học tập.
2. Dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề.
 *Mục đích: Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt bằng lời nói( viết) về một chủ đề nào đó: Nói viết về thành thị hoặc nông thôn; Kể về gia đình; Kể về một buổi thi đấu...
 Chúng ta có thể thấy dạng đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tường thuật, thuyết minh và phát biểu cảm nghĩ. Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được tiến hành theo một trình tự như sau:
- Giáo viên giới thiệu bài:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:
+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập
+ GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống câu hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.
+ Một học sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét.
- Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).
- Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.
- Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.
 Theo tôi khi dạy dạng đề này ngoài phương án được nêu trong sách giáo viên. Chúng ta có thể sử dụng mạng ý nghĩa để giúp học sinh tìm kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng tạo cho các em sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
 Sử dụng “Mạng ý nghĩa” là như sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện pháp dạy học cụ thể- Sử dụng “mạng ý nghĩa” là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ bản của thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh. 
 *Tiến trình thực hiện phương pháp “mạng ý nghĩa”:
 Hoạt động 1: Tìm hiểu đề: Học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong trí nhớ đồng thời biết đối tượng đó là ai? Là gì? Ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề.Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là chúng.
 Để thực hiện hoạt động này giáo viên có thể sử dụng một trong các bước sau:
- GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm mắt nghĩ về đối tượng.
- Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề.
- Kể một mẩu chuyện nhỏ kết hợp đặt câu hỏi hướng học sinh đến chủ đề.
- Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên hay học sinh tự sưu tầm.
- Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung cấp) liên quan đến chủ đề.
- Sử dụng mô hình ( khung ngôi nhà, khung ngôi trường ...). Trên nền khung giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào.
- Sử dụng một đoạn văn mẫu từ bài Tập đọc đã học hay từ bài làm của học sinh.
 Hoạt động 2: Tìm ý: Học sinh tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến nó. Khi tiến hành hoạt động này GV cần sử dụng một trong các bước sau:
- Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho học sinh phát triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở. Ví dụ: đối với văn miêu tả, câu hỏi có thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì? Em nghe thấy gì? Em nghĩ gì? Em cảm thấy gì?...
- Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau: Bông hoa, chùm bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá...)
- Học sinh viết các ý dưới dạng từ, cụm từ xung quanh chủ đề. Cần xoá đi những ý đã được ghi lên bảng trong giai đoạn làm mẫu khi học sinh làm việc cá nhân trong phiếu học tập. 
 Hoạt động 3: Lập dàn ý : Sắp xếp ý đã có trong mạng. 
- Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý trình tự chung của thể loại văn và hướng dẫn có tính chất mở (đoạn văn miêu tả thì lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu tả chi tiết, cụ thể thì nói sau)
- Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.
- Gọi vài học sinh khá giỏi lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình ( làm mẫu). 
 Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới dạng nói hay viết :
- Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm(theo nhóm đôi là tốt nhất)
- Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ ngữ xoay quanh mạng ít nhất một câu.
- Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học” để giúp học sinh có điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi tìm ý và ý thành bài:
+ Thu nhập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước.
+ Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.
+ Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu thập danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách.
 Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét:
- Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể hiện lại trước lớp rồi tổ chức trao đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội dung và thể loại của đề bài .
- Nếu là bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa).
 Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hoàn chỉnh.
*Ví dụ minh họa:
Ví dụ : Đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr92)
Chuẩn bị: Phiếu học tập
a..Hoàn thành bảng dưới đây
Tên bài đọc
Quê hương là...
Chi tiết làm em xúc động nhất
Giọng quê hương
......................................
......................................
....................................................
....................................................
Đất quý, đất yêu
.....................................
.....................................
....................................................
....................................................
Vẽ quê hương
.....................................
.....................................
....................................................................................................
b. Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất đồng ý.
 Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:
+ Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.
+ Là nơi mình sinh ra và lớn lên.
+ Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.
+ Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớ thương.
c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:
 Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
Cách tiến hành:
 Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý tưởng để nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)
- GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ sung hoàn thành bài tập.
Hoạt động 2: HS tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà mình đang nghĩ tới.
- GV treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để kích thích học sinh hồi tưởng.
- HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bìa phụ ghi vào khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưu ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)
 Ví dụ: 
 ngôi nhà vườn bách thú thành phố
 con sông Quê hương em cây đa, giếng nước 
 nông thôn đường phố	 nhà cao tầng
 Hoạt động 3: HS đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, GV hướng dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.
- GV bao quát lớp chú ý HS trung bình, yếu để giúp các em điều chỉnh.
 Hoạt động 4: HS nhìn mạng của mình và nói : Cho hai em nói mẫu trước lớp . 
 Ví dụ : Em sinh ra và lớp lên ở nông thôn. Quê hương em thật là đẹp. Ở đó có cây đa cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà em là con sông quê hương. Em yêu quê hương của mình.
 Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em thường được bố mẹ dẫn đi xem vườn bách thú, được ngồi trên lưng chú voi con. Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.
- Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.
Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc biệt lưu ý giúp học sinh yếu.
Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp:
- GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp ( không nhìn mạng ý nghĩa). Nếu là học sinh yếu, GV cho học sinh nhìn mạng để nói.
- Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến khích HS tự tìm đặt thêm câu hỏi mở rộng. GV nhận xét chung.
 Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp 3, chúng ta sử dụng bản đồ tư duy. Bản đồ tư duy là một phương tiện trực quan. Khi thiết kế bản đồ tư duy giáo viên cần phải đảm bảo đúng kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ để qua đó học sinh tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn.
 Khi dạy bài: Kể về gia đình (BT1-TV3 - tậpI - tr 28), giáo viên thực hiện các bước như sau: - Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể về gia đình mình cho bạn mới quen biết.
- Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình mình và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình.
- Giáo viên cho HS quan sát bản đồ tư duy trên máy. Giới thiệu cho học sinh biết một số từ ngữ liên quan đến gia đình. Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng.
- Học sinh ghi vào giấy nháp về gia đình mình.
- Giáo viên gọi một vài em kể về gia đình mình cho cả lớp nghe.
- Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.
*Lưu ý: Học sinh lớp Ba tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ ngữ phục vụ cho đề bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ được bản đồ tư duy hoàn chỉnh. Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, giáo viên nên chuẩn bị bản đồ tư duy hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa áp dụng vào giảng dạy. Đối với những học sinh khá giỏi, giáo viên cũng có thể hướng dẫn các em vẽ bản đồ tư duy trong một số bài học nhưng không yêu cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học sinh vẽ được bản đồ tư duy phục vụ cho bài học thì giáo viên cần định lượng thời gian phù hợp để các em hoàn thành, tránh tình trạng lạm dụng vẽ rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu ra. 
Phần thứ ba
 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
 Việc tìm hiểu những khó khăn của học sinh và tìm ra được hướng để khắc phục những vướng mắc khi lĩnh hội tri thức mới là một điều không thể thiếu trong quá trình dạy học. Với việc tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 3 ở trường Tiểu học hiện nay với dạng bài: “ Nghe - kể lại chuyện”; “ Kể hay nói, viết về một chủ đề” và đưa ra được các biện pháp khắc phục đã đem lại cho chúng tôi một kết quả khả quan.
- Với học sinh: Giờ học không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua thực hành giao tiếp cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu quả. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập cho học sinh. Học sinh nghe giáo viên kể chuyện trên lớp sau đó nhiều em đã kể lại trọn vẹn câu chuyện trước lớp. Qua kiểm tra, chất lượng các bài văn của học sinh nâng lên rõ nét.
- Với giáo viên: họ đã có trong tay những giải pháp khi dạy dạng bài này và không còn lúng túng khi giảng dạy cho học sinh. Cũng thông qua đề tài này mà tổ chuyên môn chúng tôi đã có những buổi họp chuyên môn hữu ích, họ không chỉ sôi nổi thảo luận khi dạy về phân môn Tập làm văn lớp 3 nói riêng này mà họ còn mạnh dạn đề ra các biện pháp dạy học phù hợp với các phân môn khác. 
 Với đề tài này tôi mong góp một phần nhỏ bé vào trong kho tàng kinh nghiêm giảng dạy Tập làm văn trong môn Tiếng Việt lớp 3 nói riêng và trong cả bậc Tiểu học nói chung. 
2. Bảng so sánh đối chiếu.
 2.1. Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài. (Năm học 2018- 2019)
* Đề bài khảo sát:
- Nghe, kể: Không nỡ nhìn.
- Nghe, kể: Chàng trai làng Phù Ủng
S
TT
Lớp
Sĩ
Số
Kể đúng, đủ nội dung có sáng tạo
Kể đúng, đủ nội dung
Kể đúng( chưa đúng) nội dung, còn thiếu ý.
SL
%
SL
%
SL
%
1
3A
39
6
15,4
19
48,7
14
35,9
2
3B
35
4
11,4
19
54,3
12
34,3
- Nói về thành thị, nông thôn.
 - Kể về gia đình em.
S
TT
Lớp
Sĩ
Số
Viết đúng chủ đề có sáng tạo
Viết đúng chủ đề, đủ ý
Viết đúng (chưa đúng) chủ đề, thiếu ý.
SL
%
SL
%
SL
%
1
3A
39
4
10,3
17
43,6
18
46,1
2
3B
35
3
8,6
16
45,7
16
45,7
2.2. Kết quả khảo sát sau khi thực hiện đề tài: ( Năm học 2019- 2020)
* Đề bài khảo sát:	- Nghe, kể: Không nỡ nhìn.
- Nghe, kể: Chàng trai làng Phù Ung.
S
TT
Lớp
Sĩ
Số
Kể đúng, đủ nội dung có sáng tạo
Kể đúng, đủ nội dung
Kể đúng( chưa đúng) nội dung, còn thiếu ý.
SL
%
SL
%
SL
%
1
3A
33
10
30,3
18
54,5
5
15,2
2
3B
26
8
30,8
14
53,8
4
15,4
3
3C
29
10
34,5
15
51,7
4
13,8
 - Nói về thành thị, nông thôn.
 - Kể về gia đình em.
S
TT
Lớp
Sĩ
Số
Viết đúng chủ đề có sáng tạo.
Viết đúng chủ đề, đủ ý.
Viết đúng( chưa đúng) chủ đề, thiếu ý.
SL
%
SL
%
SL
%
1
3A
33
11
33,3
18
54,6
4
12,1
2
3B
26
9
34,6
14
53,9
3
11,5
3
3C
29
10
 34,5
16
55,2
3
10,3
3. Khuyến nghị: 
 - Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh. 
 - Đối với tổ chuyên môn của nhà trường cần có các buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
 Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã thử nghiệm thành công tại đơn vị để góp phần nâng cao chất lượng dạy, học phân môn Tập làm văn lớp 3. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn bè đồng nghiệp. 
Xin chân thành cảm ơn! 
 Hà Nội, ngày 22 tháng 2 năm 2020 
 	Tác giả
Đỗ Thị Mai Anh 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_hoc_phan_mon_tap_l.doc