Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả cho học sinh Lớp 4

Tôi hướng dẫn học sinh lựa chọn trình tự quan sát thích hợp, cụ thể:

Trình tự không gian: Thường quan sát bao quát đến quan sát chi tiết từng bộ phận, quan sát từ trái sang phải hay từ trên xuống dưới, hay từ ngoài vào trong, nhìn từ xa lại gần....và ngược lại,...

Ví dụ: Khi tả cây phượng, tôi hướng dẫn học sinh quan sát bao quát đặc điểm chung của cây rồi quan sát đến từng bộ phận gốc, rễ, thân, lá của cây bằng tất cả các giác quan...

Khi tả cái cặp: Tôi luôn hướng dẫn học sinh quan sát đặc điểm chung của cái cặp rồi quan sát các bộ phận từ ngoài vào trong, cái cặp có màu gì, hình gì…. Nó có mấy ngăn. Các ngăn đó em đựng như thế nào?....

Trình tự thời gian: Miêu tả theo trình tự thời gian ngoài việc tạo cho bài văn logic mà còn lột tả được đặc điểm của sự vật.

Chúng ta cùng nhìn lại cách “Tả lá bàng” của Hoàng Phú Ngọc Tường viết: “Mùa xuân, lá bàng mới nảy trông như những ngọn lửa xanh. Sang hè, lá lên thật dày, ánh sáng xuyên qua chỉ còn là màu ngọc bích. Khi lá bàng ngả sang màu lục ấy là mùa thu. Sang đến những ngày cuối đông, mùa của lá rụng, nó lại có vẻ đẹp riêng. Những lá bàng mùa đông đỏ như đồng ấy, tôi có thể nhìn cả ngày không chán….”.

Để rèn luyện cho học sinh lớp quan sát tốt, bản thân tôi rất chú ý đến vấn đề này.

docx 15 trang Thu Nga 16/09/2025 70
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả cho học sinh Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả cho học sinh Lớp 4
ng như vốn từ khá phong phú. 
Dạy phân môn Luyện từ và câu là dịp để học sinh không chỉ nhận biết từ mới mà con hiểu rõ nghĩa của chúng, phân biệt được từ cùng nghĩa, trái nghĩa cho phù hợp, biết dùng các từ tượng hình, tượng thanh, từ láy trong văn miêu tả.
Ví dụ: Khi miêu tả vẻ đẹp của cây hoa hồng thì học sinh sẽ biết dùng từ đẹp, dễ thương, tươi tắn chứ không thể nhầm lẫn với từ xấu xa, bẩn thỉu                       
 4.2. Sử dụng kiến thức văn học từ các môn học khác      
Môn Lịch sử, Địa lý, Khoa học...cung cấp những kiến thức về cuộc sống xung  quanh, giúp các em tìm hiểu về những hiện tượng thiên nhiên như nắng, gió, mây, mưa,những con suối, dòng sông,những cánh rừng, ngọn núi, những con vật, đồ vật thân thiết, gần gũi với các em,Những bức vẽ trong môn Mĩ thuật cũng giúp học sinh rèn luyện kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng phong phú, sự cảm nhận tinh tế về màu sắc.
4.3. Sử dụng kiến thức văn học từ vốn sống thực tế
Những lời hát ru, những câu thành ngữ, tục ngữ, những lời ăn tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày, những bản nhạc hay, những câu chuyện hấp dẫn, những chuỗi sự việc hằng ngày diễn ra, sẽ là những tri thức rất quý báu giúp các em rèn luyện khả năng giao tiếp, khả năng sử dụng ngôn từ và khả năng tạo lập văn bản.
Như vậy có thể thấy, việc bồi dưỡng và tích luỹ kiến thức là một quá trình lâu dài, đòi hỏi các thầy cô giáo, cha mẹ định hướng cho các em, tạo cho các em có cơ hội được hoà nhập với thế giới thiên nhiên và những mối quan hệ xung quanh. 
5. Biện pháp 5:  Hướng dẫn học sinh sử dụng một số biện pháp nghệ thuật 
Để viết một đoạn văn hay, một bài văn hấp dẫn, sinh động  đòi hỏi trong từng đoạn văn phải có sử dụng một số hình thức nghệ thuật như so sánh, nhân hóa,.Vì thế, hướng dẫn các em biết sử dụng các hình thức nghệ thuật trong văn miêu tả là hết sức cần thiết.
5.1. Sử dụng biện pháp so sánh trong văn miêu tả
So sánh là biện pháp tạo hình, khiến sự vật được so sánh trở nên đẹp đẽ, sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn và gợi liên tưởng cho người đọc. So sánh có giá trị gợi âm thanh, hình ảnh. Sử dụng so sánh trong bài văn miêu tả còn là cách thức làm đẹp ngôn từ. Trong văn miêu tả có rất nhiều hình ảnh so sánh, cách so sánh khác nhau.
Nghệ thật so sánh, các em đã được học ở chương trình lớp 3. Giáo viên chỉ cần cho học sinh nhớ lại, nhắc lại các kiểu so sánh qua các ví dụ, các bài tập có liên quan đến miêu tả. 
  Tìm và nhận xét những hình ảnh so sánh trong đoạn văn, câu văn.
  Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm các câu có sử dụng các biện pháp so sánh trong các bài Tập đọc đã học và nhận xét so sánh như vậy giúp các em cảm nhận được điều gì mới mẻ của sự vật (không khó để học sinh chỉ ra nhưng không phải em nào cũng cảm nhận được cái đẹp, cái mới mẻ trong đoạn văn, thơ)?
  Ví dụ:
- Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi tỏa khắp khu vườn.
- Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con.
- Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi. Hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn ngọn nến trong xanh.
  - Những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.
  - Với những cánh tay quều quào xoè rộng, nó như con quái vật già nua cau có và khinh khỉnh giữa đám bạch dương tươi cười.v.v...
   Tôi sẽ hướng dẫn bằng các câu hỏi dẫn dắt, gợi mở để các em nắm chắc được biện pháp so sánh bằng cách sau:
   Ví dụ: Câu “Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi. Hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn ngọn nến trong xanh”.
  Tôi phân tích cách sử dụng biện pháp so sánh, tác giả lấy hình ảnh “ đèn, ngọn nến...” để tả cây gạo, búp gạo. Để thấy được tính ưu việt của biện pháp nghệ thuật này tôi lấy một câu khác:
  “Thân cây gạo rất to, cành nhiều lá ”. Và yêu cầu học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn. Dĩ nhiên là câu có sử dụng nghệ thuật so sánh, các em học sinh đều trả lời như vậy. Tôi hỏi “Hay hơn vì sao?”. Các em trả lời: “Vì sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh”. Muốn các em vững vàng hơn về cách so sánh tôi lại đưa ra một câu văn nữa:“ Tán lá gạo như chiếc ô to xòe ra tứ phía, búp gạo như những ngọn đèn dầu.”
  Yêu cầu học sinh nhận xét, so sánh với câu thứ nhất. Khi các em khẳng định câu thứ ba không hay bằng câu đầu, tôi đặt câu hỏi: “Tại sao cả hai câu đều sử dụng biện pháp so sánh mà câu đầu lại hay hơn?” và giải thích “ở câu thứ nhất, tác giả dùng hình ảnh: “Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi. Hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn ngọn nến trong xanh.”, một hình ảnh đẹp, sinh động và rất độc đáo, vì vậy đã làm cho cây gạo đẹp hẳn lên. Còn câu thứ ba so sánh với cái ô có đặc điểm giống chiếc ô, song đơn điệu và giảm đi giá trị vẻ đẹp của cây gạo. 
  Từ đó giúp học sinh hình thành sự hiểu biết: khi so sánh muốn làm cho một sự vật đẹp hơn phải so sánh với sự vật khác giống nhưng đẹp hơn, có những nét độc đáo hơn, nổi bật hơn và ngược lại. Việc này học sinh phải được luyện tập thường xuyên.
   Hãy thêm vế câu để được hình ảnh so sánh thích hợp giúp hình ảnh trở nên  sinh động.
- Lá cọ tròn xoè ra nhiều phiến nhọn dài, trông xa như (bàn tay vẫy hoặc một mặt trời mới mọc).
- Đôi cánh mẹ gà xoè ra như (hai mái nhà hoặc chiếc ô dù vững chãi) che chở cho các chú gà con.
Với dạng bài này tôi giúp học sinh thường xuyên luyện tập chọn từ điền thoải mái, không áp đặt. Sau đó nhận xét tìm ra những từ ngữ hay nhất, khen học sinh để cho các em hứng thú học văn.
Tập so sánh. 
Nâng cao hơn, tôi yêu cầu các em tìm hình ảnh so sánh và tự diễn đạt câu. Tôi đưa ra những sự vật ví dụ như: 
- Hoa thược dược, hoa cẩm chướng, hoa loa kèn, hoa xoan.
- Con đường, bãi cỏ, đồng lúa chín.
Các em đã tự đặt câu:
- Hoa xoan bồng bềnh như một chùm mây tim tím ngủ quên trên cành.
- Bãi cỏ như một tấm thảm khổng lồ xanh mơn mởn.
- Cánh đồng lúa chín y hệt một biển vàng.
Loại bài tập này khó hơn, nó đòi hỏi học sinh có trí tưởng tượng phong phú lẫn kĩ năng diễn đạt mới có thể chọn ra những câu văn hay. Cứ với cách làm như vậy thì trí tưởng tượng của học sinh sẽ ngày một phong phú, khả năng diễn đạt câu văn ngày càng một nâng cao.
Đoạn văn viết về đề bài: Hãy tả lại cây ăn quả ở vườn mà em thích.
Được quan sát và ghi chép hình ảnh sự vật, Em Huế đã viết lại: 
Hoa cam nho nhỏ, trắng tinh chẳng khác gì bông nhài thơm phức. Ngày qua ngày, hoa cam rụng xuống, những quả cam như những chiếc cúc xanh nhú ra. Thế mà vài ngày sau cam đã như hòn bi, rồi bằng quả bóng bàn xanh nấp sau tán lá trông thật vui mắt.
Như vậy, nghệ thuật so sánh là phương tiện giúp cho học sinh nhận thức sâu hơn những thuộc tính nào đó của đối tượng. Đồng thời, cũng là phương tiện giúp học sinh bày tỏ thái độ, lòng yêu ghét, sự khẳng định hay phủ định đối với đối tượng được nói đến, giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động hơn, ý tứ hơn và thu hút người đọc, người nghe hơn.
5.2. Sử dụng biện pháp nhân hoá trong văn miêu tả
Đây là biện pháp quen thuộc với các em. Các em được tiếp xúc từ khi còn trong vòng tay bế bồng của mẹ qua những lời ru cái cò, cái ốc. Rồi những câu chuyện cổ tích của bà, của cô giáo, các em đã được tiếp xúc với cả một thế giới phong phú của nghệ thuật nhân hoá.
Để học sinh thấy được sự ưu việt của biện pháp nghệ thuật này, tôi đã cho các em so sánh các cặp ví dụ cụ thể:
- Thân chuối màu đen khô ráp vì nắng gió.
à Chị chuối thật giản dị trong bộ áo đen khô ráp vì nắng gió.
-  Những con gà chạy lung tung khắp nơi.
à Những bé gà hiếu động tung tăng chạy khắp nơi.
-  Bông hồng nhung vươn cao.
à Cô hồng nhung kiêu hãnh vươn cao, hình như nó rất tự hào với sắc đẹp của mình.
Không khó cho tất cả đều có chung một câu trả lời: Câu văn thứ hai hay hơn câu văn thứ nhất. Tôi hỏi: “ Nó hay hơn vì sao?”. Nhiều học sinh lúng túng trước câu hỏi này. Tôi nghĩ giáo viên cần lí giải: Câu thứ 2 hay hơn vì đã sử dụng biện pháp nhân hóa: Chị Mái Mơ, chị chuối, bé gà, cô hồng nhung trở nên sinh động, đáng yêu vì đã có những suy nghĩ, tính cách của con người.
Sau khi các em nắm bắt được tác dụng của biện pháp này, tôi giới thiệu cho các em các cách nhân hoá sự vật: Miêu tả sự vật có đặc điểm tính nết, hoạt động, phẩm chất như con người; Gọi tên sự vật như gọi người; Trò chuyện với sự vật như với con người. Học sinh có được sự hiểu biết rõ ràng về biện pháp nghệ thuật này bằng cách cho các em luyện tập một số dạng bài tập như:
- Tập nhân hoá các con vật, cây cối, đồ vật xung quanh.
- Chị Mái Mơ rất giống một người mẹ hiền. Em hãy tưởng tượng những cử chỉ, lời nói, việc làm của chị chứng tỏ điều đó? 
Như vậy nhờ nhân hóa các sự vật hiện tượng trở nên gần gũi gắn bó với con người, giúp các em thêm yêu thiên nhiên và có ý thức bảo vệ thiên nhiên.
Biện pháp 6: Cung cấp lớp ngôn từ có giá trị nghệ thuật
Khi dạy bất kì dạng bài tập làm văn miêu tả nào cho học sinh lớp 4, tôi xác định rõ mục tiêu và cung cấp cho các em vốn từ ngữ phù hợp (nếu vốn từ ngữ trong sách giáo khoa còn hạn chế thì tôi cung cấp thêm  từ ngữ trong vốn từ ngữ dân gian), giải nghĩa những từ học sinh khó hình dung.
          Chẳng hạn khi dạy dạng bài miêu tả đồ vật, tôi cung cấp và giúp học sinh hiểu nghĩa của những từ có liên quan đến đặc điểm của các đồ vật.
Nếu miêu tả đồ dùng , tôi lưu ý học sinh những đặc điểm chung của vật. Như “cái trống thì mình tròn, mặt trống phẳng lì, cái bàn cái ghế thì có các chân thon thả, mặt phẳng, nhẵn bóng, nổi vânCái mũ, cái áo thì mềm mại, thùng thình, hơi dài hay vừa  vặn
Nếu miêu tả đồ chơi tôi lưu ý học sinh những đặc điểm của đồ chơi. Như con gấu bông, con búp bê thì mình tròn, mập mạp hay thanh mảnh, thon thả,bộ lông mềm mại, hồng hồng, đỏ tía hay vàng cam
Còn khi dạy dạng bài miêu tả cây cối, tôi lưu ý học sinh những đặc điểm chung về cây. Như là thân cây thì to tướng, hơi to, cổ thụ hay sừng sữnglá cây thì xanh đậm, xanh non, xanh biếc hay xanh umvỏ cây thì xanh xám, nâu xỉn, bạc phếch, xù xì hay nhẵn nhụi tán cây thì tròn, sum suê hay toả rộng, rễ cây ngoằn ngoèo
Khi dạy dạng bài miêu tả con vật- đây là dạng bài miêu tả sự vật sống động nên cũng phải chân thực sinh động hơn, các con vật với các đặc điểm và các hoạt động sống động cho nên việc sử dụng từ ngữ độ chính xác phải cao. Khi miêu tả con chó, con mèo, con gàthì màu lông của chúng màu trắng (trắng bạch, trắng tinh hay trắng xen lẫn đốm vàng.. ), màu vàng (vàng sậm, vàng óng hay vàng như nắng), đôi mắt của chúng có thể tròn, trong, nâu, xanh hay long lanh,chân của chúng có thể cao cao, thon thon, nhanh nhẹn hay chắc chắn, săn mồi (chồm, vồ bắt chuột..), thể hiện thái độ thân thiết, quấn quýt (với chủ)
Biện pháp 7: Bộc lộ cảm xúc trong văn miêu tả 
Văn miêu tả là loại văn giàu cảm xúc, những rung động, những nhận xét tinh tế, ngôn ngữ miêu tả giàu xúc cảm và hình ảnh. Chính vì vậy, giáo viên cần xác định cho học sinh khi miêu tả phải có hứng thú, say mê từ đó mới bộc lộ xúc cảm. 
Ví dụ:  Khi tả con vật mà em yêu thích, các em phải xem nó như một người bạn tâm giao, gần gũi, chia sẻ buồn vui: đùa giỡn cùng em, cùng ngắm trăng, ôm nó vào lòng vuốt ve âu yếm, ngắm từng cử chỉ động tác dáng điệu 
Tôi thường lấy những bài văn hay, phân tích cho học sinh thấy được miêu tả là phải giàu cảm xúc, phải xuất phát từ tình cảm yêu thương cỏ cây, loài vật. Tôi thiết nghĩ rằng, khi các em có được cảm xúc thẩm mĩ trong tâm hồn thì biết rung động trước cái đẹp, những cảnh đẹp gần gũi, thân thương và sẽ thấy thêm yêu quê hương, đất nước, con người. Do đó bài văn sẽ tránh được nhược điểm khô khan, liệt kê mà thấm đượm cảm xúc của người viết.
Biện pháp 8: Thực hiện nghiêm túc tiết Trả bài 
Tiết Trả bài tập làm văn giúp các em sửa lỗi, rút kinh nghiệm cho bài viết lần sau và học tập các bạn những cách viết hay. Cho nên tôi chú trọng việc đánh giá nhận xét, sữa chữa lỗi sai cho học sinh trong bài làm. Muốn có được tiết trả bài có hiệu quả giáo viên cần phải:
- Chấm bài cẩn thận, kĩ càng; sửa từng lỗi nhỏ trong bài viết cho học sinh
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại như: lỗi về cách dùng từ, đặt câu; lỗi diễn đạt; lỗi chính tả; ghi lại các từ, các câu, đoạn văn hay.
- Nhận xét ưu điểm, nhược điểm; thống kê số lỗi.
- Sửa lỗi cho học sinh theo từng loại như đã thống kê khi chấm bài; 
- Trả bài và tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm để các em trao đổi về cách làm bài của mình, cho học sinh tự sửa lỗi, đọc cho nhau nghe những câu văn hay, trao đổi cùng bạn để kiểm tra, chia sẻ kinh nghiệm.
Ví dụ: Với đề bài tả cây cối, học sinh viết như sau:
Nhìn từ xa, cây xà cừ  thật đẹp như một cây xanh rì. Hai cành cây nhô cao như hai chàng vệ sĩ uy nghiêm, tráng lệ.
Sau khi được giáo viên giúp đỡ, cả lớp sửa chữa em viết lại như sau:
“Nhìn từ xa, cây xà cừ tuyệt đẹp, tán lá xà cừ như một chiếc ô màu ngọc bích khổng lồ,cành lá xum xuê vươn ra tứ phía như chào đón chúng em mỗi buổi mai tới lớp”
Thông qua việc đánh giá bằng lời hay đánh giá bằng nhận xét trong vở, giúp các em thấy rõ ưu điểm để phát huy và nhận ra những tồn tại thiếu sót để khắc phục. Như vậy khâu nhận xét đánh giá, sữa chữa lỗi sai góp phần không nhỏ cho bài làm văn của học sinh. 
Biện pháp 9: Phát động phong trào đọc sách để mở rộng vốn từ
          Nhà văn M.Gorki đã nói: “Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà mỗi khi bước lên, tôi tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất”. Sách là người bạn quý của mỗi con người. Ngay từ bé, nếu trẻ nhỏ được khơi gợi niềm yêu thích đọc sách, thì khi lớn lên việc đọc sách không còn là một việc “phải làm” mà đã trở nên một thói quen hay nói đúng hơn là một niềm “đam mê”. Nhờ đó, vốn từ vựng của học sinh cũng ngày một tăng lên theo năm tháng. Sách không chỉ giúp các em nâng cao nhận thức, hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại mà còn hình thành ở các em những kỹ năng cần thiết cho tương lai.
Những tiết sinh hoạt cuối tuần, tôi lại tổ chức trò chia sẻ nội dung những câu chuyện, bài thơ hay,...mà em đã đọc trong sách để hình thành cho các em thói quen đọc sách và tiếp thu cái hay cái đẹp mà sách mang lại.
Tôi không quên căn dặn học sinh lựa chọn những cuốn sách có nội dung phù hợp với lứa tuổi, chủ đề mở rộng và có những từ khó hiểu thì em có thể tra từ điển rồi ghi chú lại.
Những tiết sinh hoạt cuối tuần, tôi lại tổ chức trò chia sẻ nội dung những câu chuyện, bài thơ hay,...mà em đã đọc trong sách để hình thành cho các em thói quen đọc sách và tiếp thu cái hay cái đẹp mà sách mang lại.
Định hướng cho các e xây dựng sổ tay văn học để ghi chép lại những ý văn hay, những hình ảnh đẹp.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi khi dạy học sinh viết bào văn miêu tả.Rất mong quý thầy cô tham khảo và chia sẻ góp ý kiến. 
Người viết: Trần Thị Dung GVCN lớp 4A Trường TH Hương Mai

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_bien_phap_nang_cao_chat_luong.docx