Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 4
Cơ sở thực tiễn
Năm học 2022 - 2023 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4A. Quan thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
Thuận lợi
- Nhà trường quan tâm đầu tư cơ sở vật đảm bảo cho dạy học hai buổi/ngày. 100% các lớp có ti vi, bảng thông minh kết nối mạng phục vụ cho việc dạy và học.
- Giáo viên có năng lực, có phương pháp dạy học đảm bảo giảng dạy có hiệu quả.
- Học sinh có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, ham học tập.
Khó khăn
- Một số giáo viên còn ngại khi phải dạy phân môn tập làm văn nên khi dạy còn lúng túng về phương pháp. Ít dạy chuyên đề tập làm văn trong các buổi sinh hoạt chuyên môn.
- Việc chấm chữa bài còn chung chung, chưa sửa ý, câu hay cách dùng từ đặt câu, chưa chú trọng việc chữa bài trong tiết trả bài.
- Một số học sinh còn hiếu động, mải chơi, chưa tập trung trong việc học tập. Khả năng cảm thụ văn học còn hạn chế dẫn đến kết quả các bài viết chưa cao.
- Vốn từ ngữ của học sinh còn hạn hẹp. Phần lớn các em chưa có thói quen đọc sách, chưa ham đọc sách nên ít có sự say mê, hứng thú với các tác phẩm văn học. Mặt khác Tập làm văn là môn học khó nên các em ngại học, ngại viết và không mấy hứng thú.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 4

ướng dẫn mở bài trực tiếp hay gián tiếp. Mở bài trực tiếp là cách mở bài học sinh hay dùng đặc biệt là đối tượng học sinh học lực ở mức hoàn thành. Ví dụ: Nhà em có trồng rất nhiều loại cây ăn quả, trong đó em thích nhất là cây xoài do bố em trồng. Đối với những em có có năng khiếu trong học tập, tôi khuyến khích các em viết mở bài theo kiểu gián tiếp bằng các cách như: - Mở bài bằng một âm thanh nào đó để gây chú ý đến đối tượng định tả. Ví dụ: “Meo Meo” Các bạn có nghe thấy không đó là tiếng kêu của chú mèo nhà tớ đó. Nó vừa tròn 2 tuổi tên là Ruby rất xinh xắn và đáng yêu. - Giới thiệu bằng cách thông qua các sự vật, sự việc khác có liên quan đến đối tượng định tả. Ví dụ: Có nhiều con vật gắn bó với cuộc sống của con người. Nếu như con trâu được xem là đầu cơ nghiệp của người nông dân, con chó là người bạn trung thành, canh giữ nhà cửa thì con gà chính là cái đồng hồ báo thức của mỗi người. Bởi vậy, em rất thích con gà trống nhà em. - Trích dẫn những câu hát, câu thơ, câu văn, câu ca dao hay về đối tượng định tả. Ví dụ: “ Mùa xuân là tết trồng cây Làm cho đất nước càng ngày càng xuân” Thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu, trong những năm vừa qua trường e trồng rất nhiều cây xanh, cây nào cũng đẹp, cây nào xũng đáng yêu, nhưng em thích nhất là cây phượng vĩ trồng giữa sân trường. Học sinh viết đoạn mở bài gián tiếp Nếu như mở bài tạo ra ấn tượng thì một kết bài hay để lại dư âm lắng đọng sâu sắc trong lòng người đọc. Trong quá trình dạy tùy vào từng đối tượng học sinh mà tôi linh hoạt các kiểu kết bài. Đối với học sinh năng khiếu tôi thường định hướng kết bài mở rộng theo kiểu bày tỏ cảm xúc đối với đối tượng miêu tả, hay có ý thức chăm sóc, giữ gìn, biết ơn, kiểu ý niệm hoặc trích dẫn những câu văn, câu thơ..... Ví dụ: Thời gian cứ thế trôi đi, cây đa như một chứng nhân lịch sử cùng ngôi làng nhỏ của em trải qua bao thăng trầm của thời đại, cây đa vẫn sừng sững đứng đó lặng lẽ chở che cho ngôi làng. Cây đa là người bạn tuổi thơ đã cùng chúng em tạo nên nhiều kỉ niệm đẹp đẽ. Trong quá trình dạy học tôi luôn lưu ý các em dù chọn mở bài, kết bài bằng cách nào thì điều quan trọng các em phải viết một cách chân thực và giàu cảm xúc. Như vậy mới khiến người đọc cảm nhận được cái hay cái đẹp và tình cảm thực sự của các em với đối tượng miêu tả. Sau nhiều lần viết mở bài gián tiếp và kết bài mở rộng các em rất thích thú được thể hiện bài viết của mình trước tập thể lớp. Từ đây các em có thể hoàn thiện được bài văn có miêu tả sáng tạo và giàu cảm xúc. 3.5. Giải pháp 5: Bồi dưỡng khả năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong viết văn miêu tả. Một bài văn miêu tả hay thì trong bài văn không thể thiếu tính nghệ thuật. Khi viết văn miêu tả tôi luôn định hướng học sinh sử dụng khéo léo các biện pháp nghệ thuật, các tính từ, các từ láy, để làm nổi bật được đối tượng miêu tả và bài văn thêm sinh động. Ví dụ: Câu “Các bé sương tinh nghịch đang nhảy nhót trên những chiếc lá non. Ông mặt trời như lòng đỏ trứng gà được đặt trên chiếc mâm màu xanh dương” Tôi sẽ hướng dẫn học sinh chỉ ra hình ảnh so sánh trong câu trên là: "ông mặt trời" được ví "như lòng đỏ trứng gà". Hình ảnh nhân hóa là: "các bé sương tinh nghich nhảy nhót.'’ Từ đó, tôi đưa ra một số câu và yêu cầu học sinh tìm từ thích hợp điền vào chỗ chấm để tạo thành câu văn có hình ảnh so sánh. - Nhìn từ xa, cây đamột vệ sĩ âm thầm bảo vệ làng em. - Trái sầu riêng lủng lẳng trên cành..những tổ kiến. Ở dạng bài này,các em có thể lựa chọn một trong những từ ngữ sau để điền vào chỗ chấm cho phù hợp: như, giồng như, tựa, như là, giống hệt Trong quá trình tập diễn đạt nội dung, có thể gợi ý bằng các câu hỏi: - Ta có thể tả lá của cây đa bằng từ nào? (chiếc quạt mo, quạt ba tiêu, cánh quạt) - Cành cây trông giống gì? (giống cánh tay của người mẹ ôm ấp đàn con) - Rễ cây đa như thế nào ? (trồi lên mặt đất như những con rắn khổng lồ) Đối với biện pháp nhân hóa cũng làm tương tự, đây là biện pháp nghệ thuật quen thuộc với các em. Nhân hóa là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người. Ví dụ: Thân cây đa khô ráp vì nắng gió. Cụ đa già thật giản dị khoác lên mình một bộ áo màu nâu, sần sùn, bạc phếch theo tháng năm Khi dùng biện pháp nhân hóa trong miêu tả các em dễ dàng nhận thấy tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó là làm cho câu văn hay hơn, sinh động hơn. Bên cạnh đó, văn miêu tả là loại văn giàu cảm xúc, những rung động, những nhận xét tinh tế, ngôn ngữ miêu tả giàu xúc cảm và hình ảnh. Tình cảm là phải là thứ gò ép, bắt buộc, tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn của các em. Chính vì vậy, tôi đã định hướng cho học sinh khi miêu tả phải có hứng thú, say mê thì mới bộc lộ được cảm xúc. Ví dụ: Khi tả cây cối, đồ vật hay con vật mà em yêu thích, các em phải xem nó như một người bạn thân, gần gũi, chia sẻ buồn vui: đùa giỡn cùng em, cùng ngắm trăng, ôm nó vào lòng vuốt ve âu yếm, ngắm từng cử chỉ động tác dáng điệu Việc lồng cảm xúc vào bài văn miêu tả là việc làm cần thiết và vô cùng quan trọng. Tôi thường yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ cảm xúc, nhận xét về một sự vật hiện tượng nào đó. Tôi cũng thường sưu tầm những bài văn hay, phân tích cho học sinh thấy được miêu tả là phải giàu cảm xúc, phải xuất phát từ tình cảm yêu thương cỏ cây, loài vật. Tôi thiết nghĩ, khi các em có được cảm xúc thẩm mĩ trong tâm hồn thì biết rung động trước cái đẹp, những cảnh đẹp gần gũi, thân thương và sẽ thấy thêm yêu quê hương, đất nước, con người. Do đó bài văn sẽ tránh được nhược điểm khô khan, liệt kê mà thấm đượm cảm xúc của người viết. 3.6. Giải pháp 6: Chú trọng, nâng cao chất lượng tiết trả bài Tập làm văn Một khâu cuối cùng và cũng là khâu quan trọng trong khi dạy học sinh viết văn miêu tả là tiết trả bài. Chấm bài và chữa bài chính là đánh giá những ưu điểm, tồn tại, hạn chế của học sinh. Giúp các em nhận ra lỗi, rút kinh nghiệm cho những bài viết lần sau. Từ đây các em học tập được những cái hay của các bạn trong lớp. Chính vì vậy, khi chấm bài, tôi luôn tâm niệm rằng phải làm việc một cách nghiêm túc, kỹ càng, chính xác bởi vì bài văn là kết quả lao động sáng tạo của các em. Người giáo viên cần phải động viên khích lệ thành công của học sinh dù là nhỏ nhất. Không được qua loa, đại khái hoặc giận dữ, bực bội, có những lời nhận xét không đúng mực để lại trên bài làm sẽ ảnh hưởng đến hứng thú, niềm tin của học sinh. Tôi luôn ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi đặt câu, lỗi diễn đạt, lỗi chính tả, lỗi dùng từ,và ghi lại những từ, câu, đoạn văn hay. Nhận xét chung về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh. Học sinh có thể tự cộng tác, trao đổi để phát hiện ra lỗi của mình, của bạn chia sẻ tìm cách sửa câu, từ,.. Trong giờ trả bài: Tôi đưa ra một số nhóm lỗi mà học sinh mắc phải. Tổ chức cho học sinh thảo luận, chia sẻ theo nhóm cộng tác để các em trao đổi bài làm của mình sau đó sửa chữa bài viết của mình. Từ đó, học sinh sẽ nhận thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau những lần trao đổi cụ thể như vậy sẽ giúp học sinh tránh được những lỗi không đáng có trong thực hành viết văn và trong cả giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày. Tôi luôn quan tâm kịp thời ghi nhận, khích lệ những tiến bộ của học sinh dù là nhỏ nhất và hãy dành cho các em những lời khen phù hợp. Ví dụ: “Bài này em viết có tiến bộ, câu văn có hình ảnh, cố gắng em nhé!”. “Cô hài lòng về bài văn của em. Câu văn rõ ràng, hình ảnh sinh động.”. “Một số câu văn của em hay, sáng tạo, tự nhiên, cô rất thích!”,... Bài viết của học sinh lớp 4A Khi đọc những lời nhận xét trên tôi tin rằng các em rất phấn khởi, thích thú, tự tin hơn và phát huy được khả năng vốn có của bản thân mình. Trong các giờ trả bài tôi thường xuyên chụp những câu, đoạn, bài văn hay, đạt điểm cao của học sinh trong lớp đưa lên màn hình tivi để học sinh quan sát, khích lệ và biểu dương. Sau đó, tôi yêu cầu các em đọc và tôi sẽ đặt ra một số câu hỏi để các em suy nghĩ và trả lời. Ví dụ: Nêu cảm nhận của em về đoạn văn, bài văn em vừa đọc ? Bài làm của bạn có gì hay ? Hay ở chỗ nào ? Bạn đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào ? Em học tập được gì từ bạn ?... Khi các em trả lời được các câu hỏi của tôi thì đó cũng là những điều các em học tập được từ chính bạn mình. Ngoài ra trong quá trình dạy học tôi tích lũy nhiều bài văn hay của những học sinh khóa trước, tôi đọc cho các em nghe và cùng nhau phân tích về cái đẹp cái hay, cái cần học tập trong từng bài văn. III. KẾT QUẢ VÀ ỨNG DỤNG 1. Kết quả đạt được (bảng so sánh) Bắt đầu năm học 2022 - 2023, tôi đã vận dụng những biện pháp nêu trên cùng với sự nỗ lực cố gắng của các em học sinh, đến giữa học kì II tôi tiến hành khảo sát. Đề bài: Em hãy tả một cây bóng mát mà em yêu thích. Thu được kết quả như sau: Nội dung cần đạt Thời điểm khảo sát/Số học sinh đạt Đầu năm học Giữa học kì II SL TL SL TL Bài viết đúng yêu cầu, từ ngữ giàu hình ảnh, sử dụng biện pháp nghệ thuật, bài văn giàu cảm xúc. 2 9,5% 14 66,7% Bài viết đủ bố cục, câu diễn đạt đủ ý, từ ngữ còn thiếu hình ảnh, ít cảm xúc, biện pháp nghệ thuật. 16 76,2% 6 28,6% Bài viết chưa đạt yêu cầu 3 14,3% 1 4,7% Nhìn vào bảng kết quả, tôi thấy các em trong lớp đã viết được bài văn miêu tả cây cối, đảm bảo bố cục 3 phần, lời văn mạch lạc, rõ ràng đặc biệt đã có nhiều em viết bài giàu hình ảnh, sử dụng câu văn sáng tạo và nhiều câu đã sử dụng nhân hóa, so sánh làm cho bài văn sinh động hơn hơn. Qua đó, các em phát triển được một số năng lực phẩm chất cơ bản như: Tự giải quyết vấn đề, chủ động, sáng tạo, óc thẩm mĩ Trong giờ học tôi thấy các em hứng thú, say sưa, tập trung hơn tạo nên những tiết học Tập làm văn thật sự hiệu quả. Qua việc nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả đã góp phần nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 4. Kết quả khảo sát thu được như sau: Số HS Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Ghi chú SL % SL % SL % 21 14 66,7 6 28,6 1 4,7 2. Ứng dụng Các giải pháp tôi đưa ra đã được ứng dụng vào việc đổi mới dạy - học viết văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn và một số bài của phân môn Luyện từ và câu ở khối lớp 4 tại trường tôi. Ngoài ra, các giải pháp này còn có thể áp dụng linh hoạt ở khối lớp 5. Việc áp dụng giải pháp này không gây tốn kém mà đem lại hiệu quả cao. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận Khi các giải pháp được đưa vào thực hiện trong các tiết Tập làm văn miêu tả đã phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong tất cả các hoạt động học tập và thực hành. Giáo viên đã thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học nên học sinh cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong trong văn miêu tả. Học sinh viết được những câu văn, bài văn hay được đánh giá cao đã mang lại cho các em niềm yêu thích và đam mê môn học. Giải pháp này mang lại hiệu quả cho giáo viên trong việc dạy học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Học sinh phát triển kiến thức kĩ năng, năng lực, phẩm chất phù hợp với yêu cầu đổi mới. Có nhiều cách để viết bài văn miêu tả và cũng có nhiều giải pháp để dạy văn miêu tả. Để thực hiện thành công những bài văn văn miêu tả, mỗi giáo viên đều phải thực hiện tốt một số yêu cầu sau: - Cần nắm chắc mục tiêu môn học, bài học để có xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp mình. - Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả: Miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho người nghe người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. - Định hướng học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách lựa chọn hình ảnh, điểm nổi bật, nội dung miêu tả phù hợp với thực tiễn cuộc sống. - Luôn tìm tòi, trau dồi kiến thức và trình độ hiểu biết với đồng nghiệp. Linh hoạt và sử dụng thật tốt những ưu điểm trong từng phương pháp giảng dạy. - Hướng dẫn học sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả và làm giàu trí tưởng tượng của các em trong khi làm văn miêu tả. - Phối hợp với nhà trường tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp để học sinh có cơ hội tích luỹ vốn hiểu biết và bồi dưỡng tâm hồn trong sáng, giàu cảm xúc cho tất cả các em. - Thường xuyên kiểm tra, đánh giá mức độ làm bài của học sinh. Từ đó, kịp thời nhận xét, động viên những em có sự tiến bộ và giúp đỡ những em còn chưa hoàn thành yêu cầu của bài học. Để giúp học sinh có những bài văn miêu tả đạt được như mong muốn chúng ta không chỉ dạy dỗ các em bằng những kiến thức mà còn bằng cả tấm lòng, trách nhiệm, lương tâm và năng lực nghề nghiệp 2. Kiến nghị - Lựa chọn hình thức tổ chức các hoạt động phù hợp với từng đối tượng học sinh để phát huy một cách tốt nhất năng lực, phẩm chất của các em. - Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học định hướng phát triển năng lực học sinh đặc biệt với phân môn Tập làm văn. - Hàng năm, Phòng Giáo dục tổ chức những cuộc giao lưu về văn hay, chữ đẹp nhằm tạo cơ hội cho học sinh phát triển năng lực của bản thân. Trên đây là một số giải pháp của cá nhân tôi đã thực hiện trong quá thời gian vừa qua, rất mong nhận được sự góp ý của lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện và có khả năng áp dụng rộng rãi hơn./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Minh Thuyết, (2019), Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 tập 1, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam 2. Nguyễn Minh Thuyết,( 2020), Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 tập 2, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam 3. Hoàng Lê Bách, ( 2019, 2020, 2021, 2022), Tạp trí Văn học tuổi trẻ, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam 4. Nguyễn Minh Hoàng, (2020), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa. 5. Trần Đức Niềm - Lê Thị Nguyên, (2005, 2006), Những bài văn mẫu của Nhà Xuất bản Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nang_cao_ky_nang_viet.docx