Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh Lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn
Thực trạng của giải pháp đã biết:
* Ưu điểm:
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường trong việc đổi mới phương pháp. Mặt khác việc học tập của các em hiện nay cũng được các bậc phụ huynh rất quan tâm. Bên cạnh đó phân môn Tập làm văn là một phân môn mới lạ đối với học sinh lớp 2 nên các em rất tò mò, hứng thú khám phá. Từ đó gây hứng thú cho các em học phân môn Tập làm văn.
* Hạn chế:
- Kỹ năng nghe nói của các em không đồng đều, đa số các em nói còn nhỏ, khả năng diễn đạt câu, từ, đoạn văn trong bài học còn chậm, yếu.
- Học sinh lớp 2 mới được làm quen với phân môn Tập làm văn nên các em còn bỡ ngỡ, chưa mạnh dạn, tự tin khi luyện nói, luyện viết.
- Đồ dùng dạy học còn chưa được trang bị đầy đủ làm chất lượng giờ học đạt kết quả không cao.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh Lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn

ành khi viết đoạn văn ngắn. Bài tập viết đoạn văn ngắn là loại bài sản sinh lời nói. Học sinh tập viết đoạn văn là tập sản sinh lời nói, văn bản. Vì vậy, giáo viên cần dựa vào các bước sau để hướng dẫn học sinh làm bài tâp . a. Bước 1: Xác định yêu cầu của đề bài. + Giáo viên phân tích yêu cầu của đề bài và định hướng cho học sinh viết. + Đoạn văn cần kể về ai (hoặc cái gì) ? + Đề bài yêu cầu viết mấy câu ? + Viết với tình cảm như thế nào ? Ví dụ: Khi dạy học sinh viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè, giáo viên cần định hướng cho học sinh + Viết đoạn gồm mấy câu? (Viết đoạn từ 3 đến 5 câu). + Viết về cái gì? (Viết về mùa hè). - Sau khi xác định được yêu cầu của bài giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp ý. Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một bài văn như lớp 4 - 5, cũng chưa có khái niệm lập dàn ý. Song với đoạn viết từ 3 đến 5 câu với 2 đến 3 ý cũng cần sự sắp xếp ý. Ở học kỳ I học sinh được kể về những người thân thiết với mình như: Cô giáo, thầy giáo, ông, bà, anh, chị, em Do đó giáo viên nên gợi ý học sinh trước tiên tự giới thiệu về người đó (Tên là gì?, mối quan hệ với bản thân?). Tiếp đó là hình dáng, tính cách, công việc hoặc ý thích của người kể và cuối cùng là tình cảm của học sinh đối với người mình kể. - Sang học kỳ II, học sinh được tả về một số con vật, cảnh vật xung quanh mình. Đầu tiên cần gợi mở cho học sinh giới thiệu về vật (cảnh vật) định tả. Chi tiết nổi bật của cảnh, vật đó. Cuối cùng là tình cảm của bản thân đối với cảnh vật và con vật đó Ví dụ: Vẫn là đoạn văn kể về mùa hè sau khi định hướng cho học sinh nắm được yêu cầu giáo viên hướng dẫn các em sắp xếp ý như sau: + Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm? (Mùa hè bắt đầu từ tháng 4 trong năm). + Mặt trời mùa hè như thế nào? (Mặt trời mùa hè rất chói chang). + Cả hai câu trên cho em biết về thời điểm và nét tiêu biểu của mùa nào? (Đó là mùa hè). - Giáo viên khẳng định đây là ý 1 của bài. + Trong bài tập đọc “Chuyện bốn mùa” - Bà Đất nói về mùa hè như thế nào? (Mùa hè cho ta trái ngọt hoa thơm) + Vậy câu nói của Bà Đất có thể trả lời được cho câu hỏi nào trong bài? (Cây trái trong vườn như thế nào?). - Giáo viên nhấn mạnh: Đây chính là ý 2 của đoạn viết. + Em có thích mùa hè không? (Có). + Vì sao? (Vì mùa hè em không phải đi học mà được nghỉ hè). + Học sinh thường làm gì vào dịp nghỉ hè? (Học sinh được đi tham quan, thắng cảnh, thăm ông bà). - Đây chính là ý 3 của đoạn viết. + Đoạn viết có mấy ý? (3 ý) Vậy đoạn văn có thể viết : Ý1----- Ý2------- Ý3 Hoặc: Ý1----- Ý3 lồng Ý2 - Việc giúp các em biết sắp xếp các ý một cách hợp lý sẽ giúp các em phát triển thành đoạn một cách dễ dàng. - Một trong những khâu quan trọng để giúp học sinh viết đoạn văn tốt là hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Ở khâu này học sinh bộc lộ rất rõ nhược điểm về tư duy cách viết câu, sử dụng từ. Giáo viên không nên làm thay cho học sinh mà nên trang bị một số tình huống, một số cách dùng từ, một số cách liên kết phù hợp với nội dung đoạn viết để học sinh vận dụng viết bài. - Với 3 ý giáo viên hướng dẫn trong đoạn văn kể về mùa hè ở ví dụ trên học sinh có thể phát triển mỗi ý thành 1 hoặc 2 câu. Từ câu này sang câu khác phải có sự liên kết tránh lặp lại từ ý này phát triển tiếp ý kia. - Với ý 1 nói về thời điểm và đặc điểm tiêu biểu của mùa hè giáo viên lưu ý học sinh không nên lặp lại từ mùa hè trong 2 câu liên tiếp. Khi viết về ánh nắng mặt trời nên dùng cách so sánh như: Nắng như thiêu như đốt, nắng cháy da cháy thịt, nắng chang chang, nắng rát cả mặt Không nhất thiết cứ mỗi câu hỏi viết được một câu trong đoạn văn. Cần viết với sự cảm nhận bằng nhiều cách: Nhìn, ngửi, ăn xen lồng với tình cảm của bản thân về mùa hè. b. Bước 2: Học sinh viết bài vào vở.(Trước khi viết vào vở cho học sinh nêu miệng bài văn). - Giáo viên hướng dẫn cách trình bày một văn bản. Khi bắt đầu viết đoạn cách lề một ô, viết hết câu này tiếp sang câu khác, ý này tiếp sang ý kia, viết hết đoạn mới xuống dòng. - Khi học sinh làm bài giáo viên quan sát giúp đỡ những học sinh có kỹ năng chưa tốt. c. Bước 3: Chấm bài, chữa lỗi. - Học sinh đổi chéo vở đọc bài, sửa câu từ, nhận xét bài lẫn cho nhau. - Giáo viên yêu cầu một số học sinh đọc bài viết của mình và đọc bài viết đã được bạn sửa (câu, từ) trước lớp. Học sinh dưới lớp nhận xét sửa chữa bổ sung. - Giáo viên chấm và chữa một số lỗi cơ bản (từ, câu, ý). - Giáo viên đọc đoạn văn mẫu mà giáo viên đã chuẩn bị để học sinh tham khảo. Giáo viên đã tiến hành dạy bằng phương pháp nói trên tất cả các tiết Tập làm văn có bài tập yêu cầu viết đoạn văn. 4. Giải pháp 4: Tổ chức ôn tập tốt cho học sinh - Giáo viên phải nắm các dạng đề Tập làm văn ở lớp 2 để tổ chức ôn tập cho học sinh. Giúp học sinh nắm được cách viết thành thạo các đoạn văn theo yêu cầu của chương trình quy định. - Giáo viên có thể tập hợp từ chương trình một số đề bài sau đây: Viết một đoạn văn ngắn về:- Cô giáo (hoặc thầy giáo) của em - Một người thân - Các mùa trong năm - Gia đình - Kể một việc làm tốt - Một em bé - Tả ngắn về một loài cây - Một con vật - Tả ngắn về biển - Một loài chim - Viết về Bác Hồ. - Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa một cách chắc chắn, phân biết rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ giúp các em tránh được những nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hưởng đến chất lượng bài viết của các em. - Giáo viên thường xuyên ôn tập cho học sinh vào các buổi dạy thứ hai trong tuần hoặc giao bài tập về nhà nhưng có kiểm tra, nhận xét, đánh giá việc học tập của các em. - Cách tiến hành như vậy giúp học sinh từ bỡ ngỡ, sợ viết văn trở nên thành thạo có kỹ năng, kỹ sảo. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm của phân môn Tập làm văn. 5. Giải pháp 5: Chấm và chữa bài cho học sinh Việc chấm chữa bài cho học sinh giúp học sinh nhận thấy những ưu, khuyết điểm của mình để phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm còn chưa tốt. Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn vì học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi sai. Trong quá trình chấm bài, giáo viên phát hiện, giúp học sinh khắc phục, biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, giáo viên giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn. Khi sửa bài, giáo viên hướng dẫn sửa các loại lỗi về cách viết như sau: - Các lỗi về chính tả: Nhiều học sinh mắc lỗi về âm đầu do ảnh hưởng tiếng địa phương ( l/n, v/d/gi, s/x) - Lỗi sai về dùng từ: học sinh dùng từ sai nghĩa. - Lỗi sai về câu: Câu thường thiếu bộ phận chính, có câu nhiều từ ngữ lặp đi lặp lại rườm rà. - Cách chữa: Giáo viên kẻ thành hai cột, một cột ghi các lỗi sai về chính tả, sai về từ, câu. Một cột ghi cách chữa đúng. Giáo viên hướng dẫn học sinh chữa bài. - Giáo viên giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước, hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một bài để các em hiểu rằng những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng. - Ngoài các biện pháp nêu trên người giáo viên cần đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc để nâng cao vốn hiểu biêt, vốn sống cho học sinh có như vậy thì học sinh mới có thể viết được đoạn văn hay phong phú về nội dung, chất lượng đoạn văn tốt hơn. IV. Kết quả đạt được: Sau một thời gian áp dụng biện pháp nói trên trong việc dạy học sinh viết đoạn văn ngắn, tôi đã thực hiện hai lần kiểm tra học sinh 2A2 để lấy số liệu. Lần 1 : Tuần 15 ngày 7 tháng 12 năm 2020 Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu nói về anh, chị, em ruột của em ( hoặc anh, chị, em họ của em). Thời gian làm bài :15 phút Với đề bài trên kết quả học sinh đạt được như sau: TSHS Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 6 - 5 Điểm dưới 5 Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % 2A2 40 18 45.0 15 37.5 7 17.5 0 0 Lần 2 : Tuần 26 ngày 19 tháng 3 năm 2021 Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn (từ 4 đến 5) câu nói về con vật mà em yêu thích. Thời gian: 15 phút Kết quả đạt được như sau: TSHS Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 6 - 5 Điểm dưới 5 Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % 2A2 40 25 62.5 12 30.0 3 7.5 0 0 Nhìn vào các bảng kết quả trên cho thấy cách tổ chức học sinh viết đoạn ngắn theo hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh có kĩ năng viết đoạn văn chắc chắn, thành thạo, chất lượng đoạn văn viết của học sinh tăng lên rõ rệt qua từng đợt kiểm tra tại lớp thực nghiệm. Kết quả Kiểm tra định kì giữa học kỳ II môn Tiếng Việt ở lớp 2A2 do tôi thực nghiệm áp dụng đề tài này đạt kết quả: 30/40 học sinh đạt Hoàn thành tốt= 75.0%; 10/40 học sinh Hoàn thành= 25.0 %; Không có học sinh nào Chưa hoàn thành. Mặt khác qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp 2A2 tôi thấy giờ học diễn ra sôi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói hơn cả là hiện tượng nói câu không rõ nghĩa, không trọn ý không còn nữa. Học sinh đã biết dùng những từ ngữ giàu hình ảnh, câu viết khá sinh động. Khi viết về các con vật và con người xung quanh mình. Thời gian hoàn thành đoạn viết trong các lần kiểm tra cũng nhanh hơn so với lớp đối chứng. Điều đó chứng tỏ cách dạy viết đoạn văn theo hướng đã trình bày ở trên đã đem lại kết quả đầy khả quan, cần được phát triển để thực sự nâng cao chất lượng viết đoạn nói riêng và học Tiếng Việt nói chung cho học sinh lớp 2 sau khi thực nghiệm, kết quả cao hơn hẳn chứng tỏ các biện pháp mà tôi đã thực nghiệm là đúng hướng. C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận: Viết đoạn văn ngắn - Đây là dạng bài nòng cốt trong môn Tập làm văn lớp 2. Nó đòi hỏi ở người học vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi mắt quan sát tinh tường, óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy khi dạy dạng bài này giáo viên cần nắm rõ tâm lí lứa tuổi học sinh. Ở lứa tuổi này học sinh nhìn nhận sự việc thế nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có em tỉ mỉ quan sát, có em rất hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh khi con muốn viết bất cứ cái gì thì các con cần hiểu rõ về cái đó. Con phải tìm hiểu thông tin về cái đó. Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cô hay quan sát thực tế, qua đọc sách báo. Giáo viên cần phối hợp những phương pháp và hình thức dạy học sao cho đảm bảo với mục tiêu. Qua thời gian tìm hiểu, nghiên cứu nội dung chương trình, đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân tôi đã mạnh dạn đưa ra: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn” mà theo cá nhân tôi việc đó là rất cần thiết và trong quá trình thực hiện tôi đã thu được kết quả khả quan. Bảng so sánh, đối chứng: TSHS Thời điểm đánh giá Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 6 - 5 Điểm dưới 5 Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % 2A2 40 Đầu năm 7 17.5 7 17.5 20 50.0 6 15.0 2A2 40 Giữa HK II 25 62.5 12 30.0 3 7.5 0 0 Đa số các em đã biết cách viết đoạn văn với những câu rõ nghĩa, đủ ý của đoạn viết theo yêu cầu của đề bài. Từ việc giảng dạy, theo dõi kết quả học tập của học sinh từ các bài kiểm tra định kì tôi thấy: học sinh đã có những hứng thú nhất định khi học môn Tập làm văn và nhất là khi tiếp xúc với bài tập viết đoạn văn ngắn. Những kết quả trên đã cho thấy những biện pháp trên là thiết thực, hiệu quả. Tuy nhiên thực tế cho thấy không có biện pháp nào là hoàn chỉnh, là tối ưu, điều quan trọng là người giáo viên phải biết lựa chọn, vận dụng các biện pháp sao cho hài hòa hợp lí thì quá trình giảng dạy sẽ đạt hiệu quả cao. Qua quá trình nghiên cứu phương pháp dạy học sinh viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2, tôi thấy trước hết người giáo viên phải tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi, học hỏi, trao đổi kiến thức, cập nhập với những vấn đề mới của xã hội để có phương pháp dạy phù hợp. Nắm chắc nội dung chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 2 nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Từ đó có những sáng tạo, cải tiến về mặt phương pháp sao cho phù hợp với từng bài dạy cụ thể, từng đối tượng học sinh. Cần xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài dạy, các bước dạy viết đoạn văn ngắn cho học sinh. Thường xuyên dự giờ, quan sát, tìm hiểu thực tế để rút ra ưu, nhược điểm của phương pháp giảng dạy mình đang thực hiện từ đó có hướng khắc phục. Phải có phương tiện tối thiểu cần thiết phục vụ bài giảng như: Tranh minh hoạ, bảng phụ. Song cần lưu ý rằng: Hãy sử dụng triệt để đồ dùng sẵn có như: tranh minh hoạ trong sách giáo khoa, cảnh tự nhiên xung quanh trẻ. Dạy học bằng phương pháp trên khơi dậy hứng thú học tập lòng say mê ham thích học hỏi của học sinh, cần làm cho học sinh cảm thấy mỗi giờ học như một buổi đi thăm quan, khám phá những điều mới lạ có trong cuộc sống xung quanh các em không nên gò ép các em theo một khuôn thước nhất định mà cần phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh. 2. Khuyến nghị: 2.1 Đối với giáo viên : Thường xuyên tìm tòi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, nghiên cứu các tài liệu, sách giáo khoa để nâng cao tay nghề. Thường xuyên kiểm tra đánh giá việc đọc của học sinh và ghi nhận kết quả học tập của các em dù là một tiến bộ rất nhỏ. 2.2 Đối với nhà trường: Tổ chức nhiều chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học” hơn nữa cho các lớp giáo viên cùng học tập. Khuyến khích giáo viên sử dụng giáo án điện tử trong quá trình giảng dạy. Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh. Nhà trường cùng địa phương tạo điều kiện cơ sở vật chất cho các em học tập tốt hơn. Đề nghị nhà trường cho phép triển khai vận dụng đề tài trong toàn tổ để đánh giá hiệu quả của đề tài một cách chắc chắn. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân đã áp dụng thành công trong thời gian vừa qua, xin được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Mong rằng sáng kiến này sẽ được áp dụng và phổ biến rộng rãi để chất lượng giáo dục Tiểu học của nhà trường ngày càng được nâng cao hơn. Rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học trường để bản thân tôi ngày càng tiến bộ. Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Ba Trại, ngày 15 tháng 5 năm 2021 Tác giả Doãn Thị Minh Nguyệt MINH CHỨNG BÀI KHẢO SÁT Ảnh 1: Bài làm của HS Tô Thùy Dương - Lớp 2A2 Ảnh 2: Bài làm của HS Đỗ Bảo Uyên - Lớp 2A2 MINH CHỨNG BÀI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ Ảnh 3: Bài làm của HS Vũ Đình Đức Khiêm - Lớp 2A2 Ảnh 4: Bài làm của HS Chu Thảo Đan - Lớp 2A2 MINH CHỨNG BÀI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ Ảnh 5: Bài làm của HS Nguyễn Huyền Mai - Lớp 2A2 Ảnh 6: Bài làm của HS Đoàn Tố Quyên - Lớp 2A2 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Văn Huệ Giáo trình. Tâm lý học Tiểu học. NXBĐHSP-HN- 2003 2. Đỗ Xuân Thảo- Lê Hữu Thỉnh. Giáo trình Tiếng Việt 2. NXBĐHSP-HN- 2003 3. Lê Phương Nga. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học 2. NXBĐHSP-HN- 2009 4. Nguyễn Minh Thuyết. Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt. NXBGD-HN 5. Lý Toàn Thắng. Ngữ pháp Tiếng Việt. NXBKHXH-HN- 2002 6. Lê Xuân Thại. Tiếng Việt trong trường Tiểu học. NXBĐHQG-HN- 1999 7. Nguyễn Trại. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt 2 tập 1,tập 2. NXBHN-HN-2008 8. SGK Tiếng Việt 2 tập 1 ,tập 2 NXBGD-HN-2003 9. Lê Thị Nguyên- Trần Lê Thảo. Tập Làm văn. NXBĐHQG- TPHCM
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_2_n.doc