Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh Lớp 3

Trẻ em ở lứa tuổi Tiểu học là lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng và ngây thơ nhất. Ở lứa tuổi này, nhận thức và kinh nghiệm sống cũng như vốn sống của các em còn nhiều hạn chế. Các em thích tìm hiểu những điều thân thuộc, gần gũi, gắn bó với thực tế đời sống hằng ngày của mình. Nhận thức của các em lúc này dừng lại ở nhận thức cảm tính. Thêm vào đó, trí nhớ của các em ở lứa tuổi này là dạng trí nhớ không bền vững. Các em tiếp thu một nguồn kiến thức, sau đó có thể nhớ một phần, thậm chí hoàn toàn không nhớ phần kiến thức mình đã được học.
Ở lứa tuổi vào học kỳ 1 của học sinh lớp 3, có thể nói là thời điểm giao hòa của lứa tuổi Tiểu học. Ở giai đoạn này, các em đã tích lũy cho bản thân mình một vốn kiến thức nhất định, sau quá trình học bậc Mầm non cũng như lớp 1 và lớp 2 ở bậc Tiểu học, cũng như vốn kiến thức và kinh nghiệm tích lũy từ gia đình, xã hội, thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, những nhận thức, kinh nghiệm của các em ở giai đoạn này cũng chỉ rất sơ khai, đơn thuần là những điều các em được học ở trường, hay là những điều các em được chứng kiến, tham gia, hay lĩnh hội được qua sự giáo dục của gia đình.
Vì vậy, ở lứa tuổi này, các em vẫn rất thích được tìm hiểu, được khám phá cuộc sống muôn hình vạn trạng xung quanh mình. Lứa tuổi của các em là lứa tuổi ham khám phá, thích tìm hiểu, có nhu cầu rất lớn trong việc được lĩnh hội thêm tri thức để gia tăng vốn hiểu biết của mình. Có thể thấy một đặc trưng của trẻ em ở lứa tuổi này là luôn thích phô diễn những điều mình biết, và việc được ngợi khen khiến cho các em đặc biệt cảm thấy thích thú, tạo nguồn động lực rất lớn cho các em.
docx 19 trang Thu Nga 19/08/2025 240
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh Lớp 3
 việc cá nhân.
Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người hàng xóm
Sau khi thống nhất các em cử đại diện nhóm lên trình bày.
Học sinh các nhóm khác nghe nhận xét, bổ sung.
Bài 2 (Trang 68): Viết những điều mà em vừa kể thành đoạn văn.
Gọi 1HS đọc yêu cầu bài tập.
Yêu cầu học sinh tự làm bài, sau đó gọi một số em đọc bài trước lớp.
HS, GV nhận xét bài viết của HS
+ Yêu cầu học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, lựa chọn từ ngữ cho phù hợp.
Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện viết đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học trong dạy tập làm văn là nhiệm vụ rất cần thiết.
Áp dụng sơ đồ tư duy vào việc giảng dạy
Sơ đồ tư duy là phương pháp dạy học tích cực tôi đã áp dụng nhiều trong các môn học. Với phân môn Tập làm văn cũng vậy, sơ đồ tư duy là phương pháp giúp học sinh được tập khả năng phân tích, tổng hợp. Đây chính là công cụ, là bí quyết để giúp cho học sinh Tiểu học nhanh tiến bộ trong viết văn. Khi lập sơ đồ các em sẽ dễ dàng nắm bắt được trọng tâm của đề bài, có thể tập trung suy nghĩ những chỗ khó, dễ dàng hình dung bố cục đoạn văn.
Tôi đã áp dụng phương pháp viết văn bằng sơ đồ tư duy và đạt hiệu quả tích cực. Ban đầu, tôi cho học sinh làm quen với việc viết sơ đồ tư duy từ chính các bài học Tiếng Việt hằng ngày, sau chuyển sang các bộ môn khác và đến khi bắt đầu học tập làm văn thì các em đã rất thành thạo việc lập sơ đồ tư duy. Không những vậy, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết sơ đồ tư duy còn giúp các em giải tỏa áp lực trong giờ
học văn, khơi dậy hứng thú, năng khiếu viết văn, phát triển khả năng tư duy, tạo cho các em thói quen tích cực suy nghĩ và cảm giác tự tin khi viết văn.
Ví dụ: Đối với đoạn văn tả người thân, tôi hướng dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy gồm những thông tin rất cơ bản: Họ tên, tuổi, nghề, sở thích, thói quen, tình cảm của học sinh đối với người thân Dựa vào sơ đồ tư duy, các em sẽ viết được một đoạn văn khoảng 10 - 15 câu, mỗi câu là một nhánh của sơ đồ. Ở bước này, giáo viên chỉ hướng dẫn, gợi ý còn lại để học sinh tự tư duy và viết.
Sơ đồ tư duy giúp chúng ta dễ dàng hình dung quá trình cấu trúc bài văn, hiểu rõ mạch tư duy viết trong đoạn văn, nắm được trình tự và phương pháp viết các đoạn văn khác nhau. Từ đó, học sinh nhanh chóng học được cách viết đoạn văn theo yêu cầu.
Miêu tả người hàng xóm mà em yêu quý
Tôi đã sử dụng sơ đồ tư duy hướng dẫn HS như sau:
Người đó tên là gì, tuổi, cách xưng hô

Ví dụ: Chú Nam, anh Duy, cô Hồng,


Hình dáng, tính tình, sở thích,

Dáng người, khuôn mặt, đôi mắt, mái tóc,


Nghề nghiệp, công việc

Bác sĩ, giáo viên, công nhân, nông dân,


Tình cảm của người đó với gia đình em

VD: Cô Hồng rất quý em hay kể chuyện cho em nghe.


Tình cảm của gia đình em với người hang xóm

VD: Em rất quý anh Duy, em thường cùng anh chơi thả diều.

Biện pháp 2: Giúp học sinh hứng thú khi học tiết Tập làm văn qua bài giảng điện tử, phim hoạt hình.
Để học sinh hứng khởi hơn trong mỗi tiết học phân môn Tập làm văn.
Giáo viên soạn những bài giảng điện tử sinh động không chỉ có văn bản chữ mà
còn có cả âm thanh, hình ảnh sống động, chân thực giúp học sinh cảm thấy hứng khởi hơn trong tiết học vì có thể nhìn hình ảnh trực quan bằng mắt thấy, tai ngheKhông phải là những con chữ hay những hình ảnh tượng trưng mà thay bằng những video, những bộ phim hoạt hình. Đặc biệt là tiết học phân môn Tập làm văn có các nhân vật hoạt hình được cô giáo dàn dựng cho học sinh xem mà học. Các con sẽ thấy mình cũng như nhân vật hoạt hình được thể hiện, nói lên
cảm xúc, suy nghĩ của chính mình ở trên màn hình. Được hóa mình vào nhân vật hoạt hình vui nhộn, học sinh sẽ thấy giờ học trôi qua nhanh, hiểu them nhiều bài học mới.. Với lợi thế về âm thanh, hình ảnh, màu sắc, những bộ phim hoạt hình
đã giúp học trò hiểu sâu sắc hơn bài học và đặc biệt là các em thấy hứng thú, yêu
thích và nhớ kiến thức lâu hơn. Học sinh không còn cảm giác gò bó, cứng nhắc khi tiếp nhận những kiến thức mang tính lý thuyết, trừu tượng. Các em không chỉ gắn kết, yêu thương, chia sẻ với nhau nhiều hơn mà đã tự tin và biết cách tự diễn tả ngôn từ sau khi xem xong.
Biện pháp 3: Tổ chức tốt việc quan sát để trau dồi vốn từ
Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn trong việc nghe-nói-viết-kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh, nội dung thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được nét đẹp của cảnh vật, con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.
Để làm tốt hoạt động này, trước hết giáo viên chú ý cho học sinh sử dụng gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể,để nhớ được các ý chính của nội dung câu chuyện. Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần hướng cho các em cách chon lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh diễn đạt sao cho dễ hiểu, sinh động. Có như vậy người nghe đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm bắt được sự việc,nhất là tình cảm của các em muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Người nghe, người đọc tuy không trực tiếp nhìn diện mạo của nhân vật, xem bối cảch của sự việc qua hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá của các em. Đó chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
Ví dụ: Bài 2 - Tuần 12 (Trang102): Yêu cầu học sinh viết đoạn văn quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta.
Khi tổ chức dạy học tôi yêu cầu HS chuẩn bị, sưu tầm trước tranh ảnh mang đến lớp. Trong khi học trực tuyến rất cần việc chuẩn bị trước của học sinh, học sinh cần sưu tầm tranh, tìm hiểu trước về cảnh đẹp mà mình muốn kể và tập giới thiệu cảnh đẹp với người thân theo gợi ý.
Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) và dựa vào gợi ý sẽ giúp học sinh nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chọn từ ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe - đọc tuy không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học sinh nói đến. Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như: Điệu bộ, nét mặt, giọng điệu của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với người nghe.
Biện pháp 4: Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức và sử dụng từ ngữ khi viết văn
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã liên hệ những nội dung kiến thức có liên quan đến chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu với phân môn Tập làm văn. Chẳng hạn, khi dạy bài Tập đọc “Ai có lỗi?” Học sinh học được là phải biết nhường nhịn bạn, nghĩ tốt về bạn và biết nhận lỗi khi lỡ cư xử không tốt với bạn. Từ đó các con hình thành thái độ, tình cảm rồi trên cơ sở đó vận dụng để trao đổi, kể chuyện, giao tiếp tốt hơn. Để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có vốn hiểu biết về đề tài, vận dụng kĩ năng thực hành để bài viết đạt kết quả.
Với các kiến thức được học các em có thể dễ dàng vận dụng để viết đoạn văn theo yêu cầu. Bởi lẽ với lứa tuổi học sinh lớp 3, việc sử dụng từ ngữ trong viết văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết các em sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy cần cung cấp, giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lí, cách đổi chỗ các các từ trong câu sao cho mượt mà tránh sử dụng lặp đi lặp lại các từ ngữ kiểu liệt kê, kể...
Biện pháp 5:Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài
Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 3 chưa được học và luyện tập nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài văn viết của các em sẽ rất nhiều lỗi sai. Giáo viên phải thường xuyên chấm, chữa bài cho học sinh. Đặc biệt tăng cường nhận xét bằng lời, chấm bài trực tiếp với từng học sinh, cũng có thể để học sinh trao đổi nhận xét bài lẫn cho nhau. Đối với những bài làm có ý hay nhưng chưa hoàn chỉnh, giáo viên giúp học sinh sửa chữa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn.
Khi chữa bài, giáo viên nên giới thiệu những bài văn hay ở năm học trước hoặc những bài văn hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo. Từ đó, giúp các em nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một bài văn, mỗi bạn sẽ có cảm nhận và cách viết riêng của mình. Để các em hiểu rằng, những bài làm thể hiện sự suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn luôn được khích lệ và tôn trọng.
Biện pháp 6: Phối hợp với cha mẹ học sinh
Để học sinh học phân môn Tập làm văn của lớp đạt kết quả tốt, tôi đã làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh để cùng xây dựng tốt nề nếp tự học và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh. Cụ thể như sau:
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi trao đổi kết quả học tập cũng như kết quả khảo sát của các em về mọi mặt nhất là việc học phân môn Tập làm văn của từng em, sau đó tôi tuyên truyền cho phụ huynh biết về vai trò quan trọng của phân môn Tập làm văn nói riêng cũng như môn Tiếng Việt nói chung.
Hướng dẫn phụ huynh trong việc chuẩn bị đồ dùng học tập của học sinh về bút, vở viết, sách giáo khoa, các tài liệu tham khảo cũng như việc đọc thêm sách, báo ở nhà và có thể được thì cho các con được trực tiếp tham gia hoặc trực tiếp xem để các con có thể kể, nói, viết những bài văn rất thật và hay.
Hướng dẫn phụ huynh dựa vào các câu hỏi gợi ý giúp học sinh quan sát, tìm hiểu bài, chuẩn bị bài ở nhà. Phụ huynh thường xuyên quan tâm, cùng con khám phá, lựa chọn từ ngữ hay để viết đoạn văn, sửa chữa các sai sót về bài viết
cho con em mình, tạo điều kiện cho các em đi trải nghiệm thực tế để các em giao lưu, học hỏi, trau dồi vốn từ.
Yêu cầu phụ huynh tạo góc học tập yên tĩnh, có đủ ánh sáng, bàn ghế đúng với tầm của các em khi ngồi học ở nhà. Phụ huynh biết khích lệ tinh thần học tập của các em.
Kết quả đạt được:
Khi thực hiện các biện pháp trên, tôi nhận thấy học sinh tự giác hơn trong học tập. Bước đầu các em có kĩ năng đọc, viết đúng các câu văn. Trong giờ Tập làm văn các em thích thú, háo hức, học tập sôi nổi hơn. Các em rất tự tin mỗi khi khám phá, viết các câu văn theo cách riêng của mình. Nhiều em phát triển kỹ năng diễn đạt trôi chảy, gãy gọn, rõ ràng và hấp dẫn hơn, chất lượng học tập được nâng cao rõ rệt. Các em đã viết được những đoạn văn giàu hình ảnh, có cảm xúc, biết sử dụng biện pháp tu từ. Ban giám hiệu, tổ chuyên môn đã quan tâm, kiểm tra chuyên môn, dự giờ và đánh giá biện pháp tôi áp dụng và có hiệu quả cao.
So sánh với kết quả đầu năm học tôi thấy kết quả viết đoạn văn của học sinh tăng lên rõ rệt. Điều đó chứng tỏ sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3” có hiệu quả. Các em đã viết được những đoạn văn giàu hình ảnh, có cảm xúc, biết sử dụng biện pháp tu từ.
Qua bảng đánh giá chất lượng cuối học kì I môn Tiếng Việt của lớp tôi, tôi thấy chất lượng của lớp tôi được nâng lên rõ rệt. Từ kết quả trên tôi rất vui và có thể khẳng định rằng: “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3” ở trên là một hướng đi đúng, mở ra một triển vọng tốt, bồi dưỡng và phát triển tư duy, kĩ năng diễn đạt cho học sinh, làm tiền đề cho các bài tập làm văn ngày càng đa dạng và phức tạp ở các lớp trên sau này.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết luận:
Học sinh ở lứa tuổi Tiểu học là học sinh ở lứa tuổi ham tìm hiểu, thích khám phá. Đặc biệt là học sinh ở lứa tuổi học kỳ 1 lớp 3 lứa tuổi đã tích lũy cho mình được một số vốn sống nhất định. Tuy nhiên, những điều các em biết không thể thỏa mãn mong muốn hiểu biết của các em. Chính vì vậy, thông qua các môn học trong nhà trường, các em sẽ tích lũy cho mình thêm rất nhiều vốn sống, vốn kiến thức cho bản thân mình. Phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn gần gũi giúp các em tích lũy thêm nhiều điều mới, cũng như thể hiện được những điều mà mình tích lũy được trong suốt quá trình học và sống của mình.
Chương trình sách giáo khoa lớp 3 (tập 1) phân môn Tập làm văn bám sát theo thực tế cuộc sống. Các bài tập gần gũi, hỗ trợ rất nhiều cho học sinh trong cuộc sống thường ngày. Chương trình biên soạn theo quan điểm mới, đề cao mục tiêu giao tiếp trong dạy học. Điều này khiến cho học sinh có thêm hứng thú trong việc học tập, cũng được rèn luyện trực tiếp các kỹ năng phục vụ cuộc sống.
Bên cạnh những thuận lợi, việc dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3 vẫn còn rất nhiều khó khăn. Điển hình là các kỹ năng được rèn luyện trong chương trình đều phải được rèn luyện đến mức thành thạo, có thể phối kết hợp cùng nhau một cách nhuần nhuyễn. Chính vì vậy, người giáo viên cần tìm cho mình những phương pháp phù hợp nhất để đạt hiệu quả giáo dục cao nhất trong quỹ thời gian ít ỏi của một tiết học.
Phân môn Tập làm văn là phân môn gắn liền với những sinh hoạt của các em trong đời sống. Vì vậy, giáo viên cần là người khơi gợi, dẫn dắt các em để học sinh tạo ra được những sản phẩm gần gũi, chân thực nhất. Người giáo viên cũng cần chú trọng đến sản phẩm của học sinh trong tất cả hai mặt ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, đảm bảo được tính đặc trưng của từng loại sản phẩm này.
Khuyến nghị:
Đối với Phòng Giáo dục
Phòng Giáo dục tăng cường tổ chức mở nhiều chuyên đề, hội thảo, hội giảng, báo cáo kinh nghiệm hay để giáo viên có cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau để nâng cao trình độ chuyên môn.
Đối với nhà trường, tổ chuyên môn
Nhà trường cần thường xuyên mở các cuộc giao lưu Tiếng Việt nhiều nội dung, chủ đề và hình thức khác nhau để giúp giáo viên và học sinh dạy - học được tốt môn Tiếng Việt.
Tổ chuyên môn cần tăng cường trao đổi, chia sẻ về đổi mới phương pháp dạy học với phân môn Tập làm văn vì đây là một phân môn khó trong phân môn Tiếng Việt.
Đối với giáo viên
Tăng cường tham gia các chuyên đề sinh hoạt tổ chuyên môn theo nghiên cứu bài học, lựa chọn phương pháp, hình thức, đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung từng bài và phù hợp đối tượng học sinh.
Trong quá trình giảng dạy, đặc biệt với phân môn Tập làm văn giáo viên phải kiên trì nhẫn nại, tìm ra nhiều những biện pháp hỗ trợ, động viên, khen ngợi, khích lệ học sinh kịp thời.
Không chỉ riêng tôi mà tất cả giáo viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, luôn gần gũi, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã áp dụng vào giảng dạy. Biện pháp dễ triển khai, dễ áp dụng, có cơ sở khoa học. Thực tế đã chứng minh và mang lại kết quả học tập cho học sinh lớp tôi hào hứng, tích cực học tập. Tôi sẽ áp dụng biện pháp này trong các năm học tiếp theo. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, không tránh khỏi những hạn chế.
Tôi mong muốn các đồng chí giáo viên, đồng nghiệp đóng góp ý kiến để tôi hoàn thiện hơn bản sáng kiến và có thể mở rộng triển khai thực hiện trong những năm học sau.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
Thanh Xuân Bắc, ngày 20 tháng 03 năm 2022
Người viết
Nguyễn Thị Loan

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_luyen_ky_nang_vie.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh Lớp 3.pdf