Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh Khối 4
Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn:
Cơ sở lí luận:
Căn cứ vào mục tiêu của GD & ĐT “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu nước, yêu CNXH”. Trong đó, giáo dục tiểu học là một trong những cấp học quan trọng tạo điều kiện phát triển tư duy của học sinh.
Dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh là làm thế nào để học sinh nắm kiến thức ngay trong giờ học trên lớp. Đồng thời giáo viên phải tổ chức, theo dõi sự chú ý của học sinh ở tất cả các giai đoạn làm sao cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi mở. Người giáo viên phải luôn luôn không ngừng tích lũy kinh nghiêm, trau dồi kiến thức và làm mới phương pháp dạy học để tạo hứng thú học tập cho học sinh. Từ đó, các em mới niềm say mê và khả năng sáng tạo, nhất là đối với phân môn Tập làm văn.
Cơ sở thực tiễn:
Xuất phát từ thực tế, từ những vướng mắc trong quá trình dạy học, tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu đề tài này. Đặc biệt việc học Tập làm văn của học sinh Tiểu học còn thiên nhiều về việc đọc và bắt chước văn mẫu nên việc phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh còn hạn chế.
- Việc dạy và học môn Tiếng Việt ở nhà trường hiện nay đã có những bước thay đổi, học sinh chủ động hơn trong chiếm lĩnh tri thức nhưng chưa đồng đều ở các phân môn của Tiếng Việt. Cụ thể trong phân môn Tập làm văn học sinh chưa thật sự chủ động trong việc tìm từ mô phỏng hay gợi tả cho chính xác hay đa dạng trong cách đặt câu và cách sử dụng biện pháp nghệ thuật để viết câu.
- Một số giáo viên chưa thực sự coi trọng cách cung cấp từ ngữ phù hợp, giàu sức gợi tả hay hướng dẫn cách sử dụng câu, cách viết câu cho học sinh.
- Một số học sinh nhận thức còn chậm, nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia phát biểu ý kiến tìm hiểu bài. Đa phần các em chưa chủ động trong việc tiếp thu kiến thức. Do đó đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp để giúp các em khắc sâu kiến thức hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh Khối 4
sắc, dáng vẻ, điệu bộ Vừa tả vừa bộc lộ tình cảm. 7.3.4. Hướng dẫn kĩ năng viết đoạn văn Trong bài văn miêu tả, các em có thể miêu tả từ tổng quát (bao quát) đến chi tiết. Do vậy, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh viết theo đoạn rồi ghép đoạn để có bài văn hoàn chỉnh. Một đoạn văn yêu cầu phải có câu chủ đề, nội dung của đoạn và câu kết đoạn. Nội dung của đoạn xoay quanh câu chủ đề, do vậy khi viết cần có sự liên kết chặt chẽ về câu và ý nghĩa giữa các câu trong đoạn. Để đoạn văn có sự liên kết chặt chẽ giữa các câu, các ý, đòi hỏi các em phải biết sử dụng các phép liên kết từ, liên kết câu một cách phù hợp nên giáo viên phải hướng dẫn học sinh sử dụng phép lặp, phép thay thế, phép liên tưởng, .... Đối với cách miêu tả theo trình tự không gian, giáo viên nên hướng dẫn sử dụng các từ ngữ chỉ vị trí để liên kết các câu với nhau. Đối với cách miêu tả theo trình tự thời gian thì sử dụng các từ ngữ chỉ thời gian để liên kết câu, đoạn. * Đoạn văn trong bài văn miêu tả đồ vật - Như đã nói ở trên, mỗi đoạn văn miêu tả có một nội dung nhất định, có thể là: giới thiệu về đồ vật, tả bao quát đồ vật, tả tùng bộ phận của đồ vật hoặc nêu lên tình cảm thái độ của người viết về đồ vật đó. * Đoạn văn trong bài văn miêu tả đồ vật. - Để xây dựng đoạn văn phải nắm được ý chính của từng phần trong bài văn miêu tả cây cối. Một bài văn miêu tả cây cối thường có 4 ý chính, đó là: + Giới thiệu cây định tả (là ý ở đoạn mở bài). + Tả bao quát cây (ứng với phần thân bài). + Tả từng bộ phận của cây (ứng với phần thân bài). + Lợi ích của cây (ứng với phần kết bài). - Đầu đoạn văn phải viết hoa và viết lùi vào bên phải trang giấy một ô. Cuối đoạn văn phải có dấu câu kết thúc đoạn và xuống dòng. Tóm lại, khi hướng dẫn học sinh viết đoạn văn cần giúp các em nhận định rõ một đoạn văn gồm câu chủ đề, nội dung đoạn và câu kết đoạn. Giữa các câu cần có sự liên kết chặt chẽ, ý các câu trong đoạn xoay quanh câu chủ đề. Câu cuối đoạn là câu kết nội dung của cả đoạn thường nêu nhận xét, đánh giá hoặc nêu cảm nghĩ của người viết. Kết nối các đoạn để trở thành bài văn hoàn chỉnh. 7.3.5. Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ, sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong văn miêu tả. a. Tích lũy vốn từ Để miêu tả đúng, hay, sinh động và hấp dẫn các em phải có vốn từ ngữ phong phú để lựa chọn sử dụng để viết. Các em học sinh lớp 4 còn hạn chế về từ ngữ, chưa biết cách tích lũy vốn từ. Do vậy, giáo viên phải biết cách hướng dẫn các em tích lũy vốn từ. Vậy tích lũy như thế nào? Từ nguồn nào? Đó là nhiệm vụ người giáo viên cần giúp học sinh trả lời. Tích lũy vốn từ là hiểu nghĩa của các từ và có thể sử dụng các từ ấy trong nói và viết. Tích lũy từ qua các giờ tập đọc, qua phân môn luyện từ và câu đặc biệt là các bài mở rộng vốn từ, qua các môn học khác, qua sách, báo; qua giao tiếp hàng ngày ở gia đình, nhà trường và xã hội. Khi biết thêm từ, hiểu nghĩa các từ, các em phải biết sử dụng cho đúng, cho hay đòi hỏi các em phải biết chọn lọc. Đối với học sinh tiểu học nói chung có thể cho các em tích lũy bằng cách ghi chép lại hoặc sử dụng trong tình huống cụ thể. b. Sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong văn miêu tả. Nghệ thuật ngôn ngữ giống như nghệ thuật tạo hình trong tranh vẽ. Nếu các em biết sử dụng các từ ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi tả chính là các em đã vẽ lên một bức tranh sinh động, nhiều màu sắc. Do vậy, người giáo viên cần giúp các em biết sử dụng các từ ngữ sao cho vừa chính xác vừa có hình ảnh. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ trong văn miêu tả cần hướng dẫn các em sử dụng các tính từ gợi tả về màu sắc, hình khối, đặc điểm, tính chất ....Đặc biệt là các từ láy, các từ tượng hình, tượng thanh kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật như phép nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, đảo ngữ, ... Song để học sinh sử dụng tốt các từ ngữ gợi tả, giáo viên nên cho các em tìm từ, tập đặt câu rồi luyện viết đoạn văn ngắn, qua đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sử dụng từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật. Ví dụ: Giáo viên có thể cho học sinh luyện thông qua một số bài tập như sau: * Dạng 1: Viết thêm từ ngữ, thay thế từ ngữ trong câu Bài 1: Gạch dưới từ ngữ trong mỗi câu sau và chữa lại cho đúng: Nhận được chiếc cặp từ tay bố, em rất khoái. Chữa lại: ......................................................................................................... Chiếc bút của em có màu đen sì. Chữa lại:.......................................................................................................... Em coi chiếc bàn như người bạn thắm thiết của mình. Chữa lại: ......................................................................................................... Bài 2: Viết thêm từ ngữ vào các câu sau để câu văn thêm sinh động hơn. Quả bàng màu vàng to bằng quả ổi nhỏ. Chim bay lên cao và hót. Gợi ý: Có thể viết lại như sau: Quả bàng vàng rực to bằng quả ổi nhỏ lấp ló sau những chiếc lá. Chim bay vút lên cao và hót véo von. *Dạng 2: Sử dụng các biện pháp tu từ để viết câu Bài 1: Dùng biện pháp so sánh viết lại các câu sau cho hay hơn. Búp bê có bộ tóc rất vàng. Tán bàng xòe ra rất rộng Bộ lông xám tro của chú mèo rất mượt. Gợi ý: Có thể viết lại như sau: Búp bê có bộ tóc vàng óng ả như tia nắng mùa thu. Tán bàng xòe ra giống như chiếc ô lớn nhiều tầng. Bộ lông xám tro của chú mèo mượt như nhung. Bài 2: Dùng biện pháp nhân hóa viết lại các câu sau cho hay hơn. Ngày nào cũng vậy, trống được đặt trên cái giá gỗ trước cửa phòng Hội đồng. Tiếng hót từ trời cao trong vắt. Gợi ý: Có thể viết lại như sau: Ngày nào cũng vậy, trống được ngồi chễm chệ trên cái giá gỗ trước cửa phòng Hội đồng. Tiếng hót từ trời cao rót xuống trong vắt như tiếng ngọc. 7.3.6. Tạo hứng thú cho học sinh khi học tập làm văn Một yếu tố quan trọng giúp cho đoạn văn hay bài văn trở nên sinh động, hấp dẫn và có “cái riêng”, có “hồn” đó chính là cảm xúc của người viết. Đa số các em học sinh cấp tiểu học chưa biết thể hiện cảm xúc của mình trong văn miêu tả nên bài làm của các em còn sơ sài, hời hợt, chưa đem lại hiệu quả cao. Do đó người thầy cần tạo cảm hứng cho các em khi học văn. Trong thực tế giảng dạy ở tiểu học, tập làm văn là phân môn khó dạy nhất vì nhiều lí do: - Thứ nhất, học sinh còn hạn chế về từ ngữ. - Thứ hai, học sinh ngại suy nghĩ, ngại viết. - Thứ ba, cảm xúc của các em khi viết không có hoặc không biết sử dụng để viết. Đây cũng là lí do làm cho bài viết của các em còn khô khan, hầu hết các bài văn miêu tả là kể lể, liệt kê. Để bài viết của học sinh phong phú hơn, hấp dẫn hơn và bộc lộ được cảm xúc trong khi viết, giáo viên cần tạo cảm hứng, hứng thú học tập cho các em. Khi làm một việc gì đó với sự say mê, hứng thú thì không có gì là không làm được. M. Gorky từng nói: “Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc”. Sự say mê, hứng thú sẽ đi liền với sự tự giác, điều đó chính là tính tích cực trong nhận thức và học tập của học sinh giúp đem lại hiệu quả cao. Người giáo viên giỏi có nhiệm vụ khơi nguồn cảm hứng trong học tập cho học sinh. Khổng Tử nói: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui mà học”. Do đó, giáo viên cần: + Tạo niềm vui cho các em khi bước vào giờ học và trong cả giờ học. Giáo viên cần tạo ra giờ học nhẹ nhàng, thoải mái nhưng hiệu quả thông qua các trò chơi học tập liên quan đến tiết học hoặc các câu đố vui về sự vật cần miêu tả. Ví dụ: Học sinh tổ chức trò chơi theo nhóm trò chơi sau: Học sinh trong nhóm lần lượt nêu các từ gợi tả về đặc điểm, hình dáng, tính chất,... về một sự vật nào đó, các học sinh còn lại nêu tên sự vật đó. Hoặc học sinh có thể thể hiện bằng hành động, học sinh khác tìm từ miêu tả lại hành động đó.... Qua những trò chơi này, giúp các em củng cố về vốn từ, tập nói thành câu qua cách học hết sức nhẹ nhàng, tự nhiên. Trong cuốn sách “Phương pháp học tốt hơn trường học tốt”, tác giả Thư Đức Sơ viết: “ Để trẻ học làm văn, thông thường cho trẻ làm văn nói, sau đó mới làm văn viết, để trẻ viết những chuyện mà mình quen thuộc, những chuyện mà mình đã trải qua. Như vậy trẻ sẽ cảm thấy viết văn không khó, khi đã có cảm giác thành công sẽ kích thích trẻ yêu thích viết văn. Làm văn nói giúp trẻ phát triển khả năng biểu đạt, nâng cao khả năng tư duy và sắp xếp câu, từ đó trẻ sẽ cảm thấy thoải mái, tự do biểu đạt ý của mình. Khi chúng ta khen ngợi trẻ, muốn trẻ viết những điều mình vừa trình bày vào vở, trẻ sẽ có hứng thú hơn. Đương nhiên văn nói và văn viết có sự khác nhau, nhưng chỉ cần trẻ dần dần học hỏi và phân biệt trong quá trình luyện tập, trẻ dần dần biến văn nói thành văn viết.” + Giúp học sinh nhận ra mục tiêu và ý nghĩa của bài học. Cảm hứng học tập của học sinh phải được gắn liền với mục tiêu và ích lợi của việc học. Giáo viên cần giúp các em nhận thấy được sự quan trọng, cái cần đạt được sau mỗi bài học và ích lợi của việc làm đó. Từ đó giúp các em xác định và vận dụng đúng nguồn cảm hứng của mình. Đồng thời giáo viên cần tuyên dương những ý kiến, những phát hiện đúng yêu cầu. + Giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của Tiếng Việt, khơi dậy niềm tự hào dân tộc. Có thể cho học sinh tìm những từ ngữ, những câu văn hay, những hình ảnh đẹp trong các bài văn, bài thơ hoặc các em tìm những bài viết hay. Từ đó, các em dần dần cảm nhận những tinh túy trong Tiếng việt. + Đổi mới cách ra đề Tập làm văn. Từ những câu văn hay, những hình ảnh đẹp cũng có thể tạo cảm hứng cho nguồn cảm xúc. Do vậy, thay vì những đề ngắn, khô khan, giáo viên có thể ra những đề văn có phần dẫn dắt, khơi gợi cảm xúc cho học trò. Trong cuốn sách “40 đề ôn luyện Tiếng Việt cuối cấp Tiểu học” của GS.TS Lê Phương Nga, TS Lê Hữu Tỉnh, PGS. TS Nguyễn Trí đã ra những đề Tập làm văn gợi mở cảm hứng cho học sinh khi viết văn. Ví dụ như đề sau: Để tả con vật tác giả ra đề: “Chó là một loài vật trung thành, gần gũi với con người. Mỗi con chó đều có vẻ đáng yêu: cậu Vàng có bộ lông óng mượt, cậu Vện khoác chiếc áo khoang trắng khoang đen vui mắt, cô Li Li có cái mõm nhọ ngộ nghĩnh, cô Lu có cái mặt gãy dễ thương,... Hãy tả lại một chú chó mà em biết.” (40 đề ôn luyện Tiếng Việt cuối cấp Tiểu học) + Tạo không gian học tập sáng tạo cho học sinh Dạy Tập làm văn, giáo viên không chỉ giúp các em viết đúng mà còn viết hay, sáng tạo. Không gian học tập cũng góp phần không nhỏ để tạo ra nguồn cảm hứng viết cho các em. Như đã nói ở trên, văn miêu tả là sản phẩm của sự quan sát, cảm nhận, do đó cần tạo môi trường gần gũi, thân thiết để giúp học sinh cảm nhận tốt nhất. Ví dụ: Để cảm nhận được sự lay động của lá, sự mơn man của gió, hương thơm dìu dịu của cây cỏ,... không thể gò bó các em trong khuôn viên lớp học chật chội mà các em phải được hòa đồng với thiên nhiên, cây cỏ sẽ giúp các em cảm nhận tốt hơn. Hoặc khi tả về hoạt động của con vật, đối với học sinh thành phố do các em ít được tiếp súc với các con vật hơn nên các em rất khó để quan sát, đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị thật kĩ các công cụ hỗ trợ trong giảng dạy như tranh ảnh, máy chiếu,... 7.4. Khả năng áp dụng Áp dụng trong công tác giảng dạy Tập làm văn lớp 4 ở các trường Tiểu học trong toàn thành phố cũng như trong tỉnh Vĩnh Phúc. 8. Các thông tin cần được bảo mật: Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: + Để sáng kiến đạt hiệu quả cao, cần có những điều kiện sau: * Về phía nhà trường: Cần trang bị đủ các điều kiện về cơ sở vật chất như phòng học, bàn ghế, ánh sáng. * Về học sinh: Cần có đủ đồ dùng học tập như: sách vở, bút, sách tham khảo,. Nêu cao tinh thần tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập. * Về giáo viên: Đẩy mạnh quá trình bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. * Về phụ huynh: Thường xuyên động viên và quan tâm tới việc học tập của con em mình. Phối kết hợp với giáo viên và nhà trường trong việc giáo dục con. 10. Đánh giá lợi ích thu được: 10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến của tác giả: Sau khi nghiên cứu và áp dụng sáng kiến trong thực tế giảng dạy, qua kiểm tra đánh giá, tôi nhận thấy các em có những tiến bộ đối với môn Tiếng Việt nói chung và đối với phân môn Tập làm văn nói riêng và cụ thể là kiểu bài văn miêu tả trong chương trình lớp 4. - Học sinh có hứng thú học tập tốt hơn đối với phân môn Tập làm văn. Các em tự tin, biết cách thể hiện bản thân trong học tập và đặc biệt các em biết áp dụng kiến thức văn học vào trong cuộc sống. Ngược lại, học sinh nhìn nhận sự vật theo cách nhìn của các em và đưa cái nhận biết ấy vào trong bài viết của mình qua quan sát, đến văn nói rồi đến văn viết một cách nhẹ nhàng và tự nhiên hơn. - Các em đã biết quan sát sự vật bằng nhiều giác quan, biết tích lũy và sử dụng từ tốt hơn. Thể hiện rõ qua bài làm của các em. Học sinh đã có thể miêu tả chính xác và hình ảnh hơn về sự vật cần tả. Bài viết dài hơn, câu văn viết đúng cấu trúc và có sự liên kết chặt chẽ hơn. - Văn là người, học sinh hiểu điều đó nên khi viết văn cũng giống như người nói chuyện cần thể hiện cảm xúc và các em đã biết đưa cảm xúc của mình vào trong bài viết. Vì thế, bài viết của các em không khô khan, cộc lốc. - Học sinh biết tích cực, chủ động trong học tập; biết phát huy năng lực và khả năng sáng tạo của mình để có bài viết tốt nhất. - Kết quả học tập của các em tốt hơn. - Học sinh không còn ngại học phân môn Tập làm văn, các em đã dành nhiều thời gian học tập hơn cho phân môn này. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: Được đồng nghiệp, học sinh hưởng ứng nhiệt tình và đã mang lại những kết quả cao cho học sinh sau khi áp dụng. Cụ thể kết quả như sau: Bảng so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng sáng kiến: Trước khi áp dụng Lớp TSHS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 4A1 42 6 14,3% 12 28,6% 19 45,2% 5 11,9% 4A2 41 5 12,2% 11 26,8% 20 48,8% 5 12,2% Áp dụng đến giữa học kì II năm học 2018 – 2019 Lớp TSHS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 4A1 42 23 54,8% 14 33,3% 5 11,9% 0 0 4A2 41 21 51,2% 16 39,0% 04 9,8% 0 0 11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến STT Tên tổ chức /cá nhân Địa chỉ Phạm vi/ Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Lớp 4A1 Trường TH Liên Minh Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc Khối 4 2 Lớp 4A2 Trường TH Liên Minh Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc Khối 4 Vĩnh Yên, ngày tháng 4 năm 2019 Xác nhận của nhà trường (Ký, ghi rõ họ tên) Vĩnh Yên, ngày tháng 4 năm 2019 Người viết báo cáo Lê Thị Lan Phương TÀI LIỆU THAM KHẢO Cơ sở ngữ pháp Tiếng Việt – Nguyễn Kim Thản – Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Bài tập thực hành Tiếng Việt 4 – Lê Hữu Tỉnh, Xuân Thị Nguyệt Hà, Trần Mạnh Hưởng – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Tuyển chọn những bài văn miêu tả 4 – Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Hướng dẫn học Tập làm văn 4 – Lê Phương Liên – Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Giáo trình Lý luận văn học – Phạm Đăng Dư, Lê Lưu Oanh – Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. 40 đề ôn luyện Tiếng Việt cuối cấp Tiểu học – GS.TS Lê Phương Nga, TS. Lê Hữu Tỉnh, PGS. TS Nguyễn Trí – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Phương pháp tốt hơn trường học tốt – Thư Đức Sơ – Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_viet_van.docx

