Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Khối 5
Môn Tiếng Việt trong nhà trường tiểu học có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm hình thành và phát triển ở học sinh (HS) 4 kĩ năng sử dụng tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết để hoạt động và giao tiếp. Qua đó, bồi dưỡng lòng yêu quý tiếng Việt, chữ viết tiếng Việt và thói quen giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, giúp các em hoàn thiện nhân cách.
Chính tả là một trong những phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt nên ngoài nhiệm vụ chung, nó còn có nhiệm vụ riêng là giúp HS nắm vững các quy tắc chính tả và hình thành kĩ năng chính tả; nói cách khác, giúp HS hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả. Vì vậy, cần coi trọng việc dạy Chính tả cho HS tiểu học. Có thói quen viết đúng chính tả, biết cách diễn đạt, trình bày góp phần giúp các em tiếp thu và lĩnh hội những tri thức của các môn học, đồng thời góp phần hoàn thiện nhân cách một cách toàn diện.
Chính tả có tầm quan trọng như vậy nhưng trên thực tế, việc dạy và học Chính tả chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của ngành Giáo dục và của toàn xã hội. Thực tế ở các trường phổ thông vẫn còn một số HS chưa có thói quen viết đúng chính tả và việc sửa lỗi, rèn kĩ năng viết chính tả cho HS còn gặp nhiều khó khăn vì nó còn phụ thuộc nhiều vào ý thức sửa lỗi của cả giáo viên (GV) và HS. HS chủ yếu viết sai các phụ âm đầu dễ nhầm lẫn như l/n, tr/ch, s/x, d/gi, r. Nguyên nhân chủ yếu là do các em không nắm vững được các quy tắc chính tả, một số ít các em do phát âm sai dẫn đến hiểu sai và viết sai chính tả. Thêm nữa, hệ thống sách giáo khoa (SGK), bài tập chính tả chưa được xây dựng trên cơ sở khảo sát tình hình mắc lỗi chính tả của HS ở các vùng phương ngữ. Tình trạng này gây ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả dạy - học Chính tả ở Tiểu học hiện nay, đặc biệt là ở các trường tiểu học miền núi.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Khối 5

ng trường hợp do điệp điệp âm đầu trong từ láy: suýt soát, sột soạt, sờ soạng. - Mẹo láy âm: Chỉ có X mới láy âm với các phụ âm đầu khác, còn S hầu không có khả năng này. VD: bờm xờm, xô bồ, búa xua, lòa xòa, xấc lấc, xích míc, xo ro, Ngoài lệ: cục súc, sáng láng, loạt soạt. 5. Mẹo viết d, r, gi: - Mẹo đồng nghĩa: Ở một số trường hợp, R đồng nghĩa với L và S do quan hệ về nguồn gốc. Đây là cơ sở để viết đúng R trong những trường hợp như vậy. + R đồng nghĩa cùng gốc với L: lấp-rấp; lóc-róc; lỗ-rỗ; ngày mười lăm-ngày rằm; ; + R đồng nghĩa cùng gốc với S: siết-riết; sắp-rắp; sáng-rạng; sẻo-rẻo; + Tương ứng R/D: ríu mắt - díu mắt; rờn rợn - dờn dợn; rõi theo - dõi theo; . + Tương ứng R/GI: rập khuôn - giập khuôn; chế riễu - chế giieeux; ràn rụa - giàn giụa; . - Mẹo về âm đệm: R và GI không kết hợp với âm đệm tức là không đứng trước các bắt đầu bằng oa, oă, uâ, oe, uê, uy. VD: dọa nạt, hậu duệ, duy trì, vô duyên, . Ngoại lệ: roa trong cu-roa - một từ phiên âm tiếng Pháp. - Mẹo láy âm “co ro - bịn rịn”: chỉ có R láy âm với B và C (K), còn D và GI thì không. VD: bịn rịn, bứt rứt, bã rã, bêu rêu, cập rập, cọm rọm, cà rà, kèo rèo, . - Mẹo “run rấy - rừng rực” : những từ láy điệp âm đầu với R có đặc điểm ngữ nghĩa khác hẳn với những từ láy điệp âm đầu với GI hay D. + Những từ láy điệp âm đầu R mô phỏng tiếng động, gợi tả âm thanh: rào rào, răng rác, róc rách, réo rắt, reng rẻng, rì rầm, . + Những từ láy điệp âm đầu R chỉ sự rung động ở nhiều cung bậc khác nhau: run rẩy, rung rinh, rón rén, rập rình, . + Những từ láy điệp âm đầu R chỉ những sắc thái ánh sáng động, tươi, chói: rần rật, rực rỡ, rừng rực, roi rói, rạng rỡ, . - Trong những từ láy đôi, nếu tiếng đầu có phụ âm l thì tiếng thứ hai có phụ âm là d, chứ không thể là r hay gi: lò dò, lai dai, lắc dắc, - Đối với các trường hợp khác, muốn xác định cách viết đúng phải dựa vào sự đối lập về nghĩa: + gia (tăng thêm): gia hạn, gia vị, gia tăng, tăng gia, tham gia, + gia ( nhà): gia đình, gia tài, gia sản, gia sư, gia trưởng, quản gia, gia phong,.. + da (lớp vỏ bên ngoài): da thịt, da dẻ, da trời, da mặt, + ra (sự di chuyển): ra vào, ra ngoài, ra sân, ra chơi, Nhờ có bảng tổng hợp các qui tắc và mẹo luật chính tả này mà học sinh lớp tôi trở nên sôi nổi học tập, em nào cũng thuộc những câu thơ về mẹo luật chính tả, lỗi chính tả đã giảm đi đáng kể. Nhưng chỉ nắm các qui tắc và các“ mẹo” chính tả thì vẫn chưa khắc phục được triệt để các lỗi chính tả. Vì vậy, khi dạy chính tả , tôi phải phối hợp vận dụng cả qui tắc “ Kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không ý thức”. Phương pháp có ý thức vẫn được coi là chủ yếu như ghi nhớ các qui tắc, các mẹo chính tả,Nhưng trong một số trường hợp ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, không gắn với một qui luật, qui tắc nào thì tôi dạy các em cách “nhớ từng từ một” (cách không óc ý thức), đây cũng là giải pháp hữu hiệu, hợp lí. Bởi vì, phần lớn những người viết đúng chính tả hiện nay đều dựa vào cách nhớ từng từ một. Theo cách này, tôi hướng dẫn học sinh chỉ cần tập trung nhớ mặt chữ của những từ dễ viết sai. Những từ dễ viết sai này chiếm tỉ lệ không nhiều, do đó học sinh có thể ghi nhớ được. Chẳng hạn như: rượu, hươu, khướu, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, xoong, quần xoóc, xe goòng, hoặc từ những chỉ viết thanh ngã chứ không viết thanh hỏi, từ để chỉ viết thanh hỏi chứ không viết thanh ngã, từ kể chỉ viết thanh hỏi chứ không viết thanh ngã, Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi Song song với việc ôn tập gúp học sinh nắm vững các qui tắc và mẹo chính tả, việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài viết cũng rất quan trọng. Đây là một thói quen mà giáo viên cần phải rèn cho học sinh, không chỉ ở chính tả mà ở tất cả các môn học khác. * Đối với bài chính tả Đoạn bài, sau khi học sinh viết xong, tôi tổ chức cho học sinh đổi vở và soát lỗi lẫn nhau. Tôi qui định lỗi cụ thể, yêu cầu các em soát lỗi bài viết của bạn, dùng bút chì gạch dưới chữ viết sai, tổng hợp số lỗi rồi trả về cho bạn tự sửa (ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại đúng chính tả). Đối với những em viết sai nhiều, tôi phân công 1 học sinh giỏi đổi vở và soát lỗi với học sinh đó. Sau khi các em soát lỗi xong, tôi mới thu vở để chấm điểm. Trong giờ chính tả, tôi chỉ chấm nhanh khoảng 1/3 lớp. Nhưng giờ ra chơi, tôi cố gắng chấm hết, chấm thật kĩ và ghi nhận xét cụ thể, khen những em có tiến bộ. Khi trả vở cho học sinh, tôi khen ngợi những em đã soát lỗi bài viết của bạn chính xác, tuyên dương những em có tiến bộ, động viên những em còn viết sai nhiều về nhà sửa lỗi trong vở và trong bảng tổng hợp. * Đối với các bài tập, tôi thường tổ chức cho các em làm bài trong nhóm nhỏ bằng nhiều hình thức thi đua như: Ai nhanh ai đúng, Tìm nhanh viết đúng, Các nhóm ghi bài làm của nhóm mình vào bảng nhóm hoặc phiếu bài tập để cả lớp nhận xét, bầu chọn nhóm thắng cuộc. * Đối với những tiết học khác, tôi cũng luôn nhắc nhở học sinh viết đúng chính tả . Khi chấm đoạn văn hoặc bài tập làm văn hoặc các bài kiểm tra của học sinh, tôi nhận xét kĩ càng, tỉ mỉ, chỉ rõ các lỗi chính tả và hướng dẫn học sinh sửa lỗi khi trả bài. Biện pháp 5: Tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học tập Ngay vào đầu năm học, tôi đã tổ chức cho các em nuôi lợn đất bằng cách tiết kiệm, thu gom phế liệu bán mỗi tuần chỉ cho lợn ăn 5000 đồng hoặc 10000 đồng. Số tiền đó tôi bàn với cả lớp: ”Trong năm học, bạn nào học tập tiến bộ cô sẽ cùng cả lớp trích tiền trong lợn đất mua quà để thưởng. Em nào cũng đồng ý và thi đua học tập để được nhận phần thưởng”. Học sinh Tiểu học rất thích được khen thưởng, tuyên dương. Có thể, có em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học chính tả nhưng các em rất thích được thầy cô, cha mẹ khen. Nhờ những lời khen đó mà các em vui sướng, thích đến trường; tích cực, cố gắng, tự giác hơn trong học tập. Hiểu đặc điểm tâm lí của các em như vậy nên tôi luôn động viên, khuyến khích các em; tôi luôn theo dõi sát quá trình học tập của học sinh , dù chỉ một tiến bộ nhỏ của các em về thái độ học tập cũng như kết quả học tập , tôi đều khen ngợi kịp thời. - Đối với những học sinh khá, giỏi, bài viết sạch đẹp, ít sai chính tả, tôi thường ghi nhận xét vào vở, và biểu dương các em trước lớp. - Đối với những học sinh viết sai chính tả nhiều, tôi luôn dành thời gian hướng dẫn các em sửa lỗi. Cứ nửa học kì, tôi chọn ra 5 em có tiến bộ nhất để khen thưởng. Phần thưởng chỉ là hai quyển vở có chữ kí của tôi và được tôi bọc bìa, dán nhãn cẩn thận hoặc một cái bút (loại có thể thay ngòi). Phần thưởng tuy nhỏ nhưng các em rất vui, rất hãnh diện. 6. Kết quả thực hiện đề tài Bằng các biện pháp, các hình thức tổ chức phù hợp nói trên, tôi đã từng bước hình thành ở học sinh năng lực và thói quen viết đúng chính tả; các em viết chính tả một cách có ý thức chứ không tùy tiện như trước. Kết quả cuối năm về bài viết chính tả của học sinh Sĩ số Hoàn thành Tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % SL % 38 12 31,6 26 68,4 0 0 Qua một năm giảng dạy và áp dụng những biện pháp trên, tôi thấy chất lượng bài viết chính tả của học sinh lớp tôi đã được nâng lên rõ rệt. Số lượng bài chính tả hoàn thành tốt đạt mức cao 31,6% và không còn bài chưa hoàn thành. Các em không chỉ có ý thức viết đúng chính tả mà còn có ý thức rèn luyện chữ viết. Những em mất căn bản về chính tả thì lại vững vàng hơn, ít mắc lỗi thông thường hơn, chữ viết cẩn thận và đẹp hơn. 6.1 Nguyên nhân thành công và tồn tại - Tôi có được thành công trong dạy học phân môn Chính tả là nhờ các nguyên nhân chính sau đây: + Bản thân luôn ý thức tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nhất định, cộng với tinh thần nhiệt tình trong công tác; yêu nghề mến trẻ, luôn luôn học hỏi đồng nghiệp. + Hiểu học sinh, nắm được đặc điểm tâm lí và nhu cầu sở thích của từng em. + Tôi luôn ân cần, chỉ bảo, động viên, khích lệ học sinh, làm cho các em tự tin, hứng thú, tạo ra động lực thúc đẩy sự tiến bộ của các em. + Tôi luôn quan tâm đúng mức đến học sinh yếu, làm tốt công tác chủ nhiệm và nhắc nhỡ các em đi học đều, thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh để trao đổi về việc học của các em. + Bên cạnh sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được sự ủng hộ của các bậc phụ huynh trong việc rèn luyện các em học ở nhà. + Nhờ sự giúp đỡ của Ban giám hiệu cũng như các đồng nghiệp luôn nhiệt tình góp ý xây dựng phân môn này được hoàn thiện. + Và đặc biệt là sự tiến bộ của học sinh, chuẩn bị bài tốt ở nhà, nhờ tinh thần đoàn kết, giúp đỡ bạn (hình thức là các em học theo nhóm). + Được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương và các mạnh thường quân về vật chất lẫn tinh thần để tạo điều kiện cho các em nghèo có hoàn cảnh khó khăn học tốt hơn. Tuy nhiên, trong quá trình rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5 tôi vẫn còn gặp một số tồn tại sau: + Ở lớp, số lượng học sinh nhiều, dạy trực tuyến 1 buổi trên ngày, do đó giáo viên khó kèm sát từng em, hơn nữa thời gian kèm cặp còn hạn chế. + Một số học sinh còn ham chơi, chưa ý thức học tập, chưa biết sắp xếp thời gian học ở nhà hợp lí. + Một số em phát âm chưa chính xác, ( bệnh bẩm sinh), đọc chữ không lưu loát, trôi chảy. + Một số phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc học của các em. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của sáng kiến: - Sau khi học tốt phân môn chính tả, các em sẽ học tiến bộ các phân môn khác như: Tập đọc, Tập làm văn, Luyện từ và câu,.. - Áp dụng sáng kiến kinh nghiệm giúp học sinh viết đúng, đọc đúng, hiểu rõ nghĩa của từ. Từ đó, các em càng yêu quý Tiếng Việt, luôn giữ gìn bản sắc dân tộc, yêu quê hương đất nước. 6.3. Những bài học kinh nghiệm: - Qua quá trình nghiên cứu, bản thân tôi rút ra những kinh nghiệm sau: + Ngay đầu năm, giáo viên nên tổ chức khảo sát chất lượng học tập của học sinh để biết em nào còn yếu chính tả mà có hướng bồi dưỡng kịp thời. Và quy định mỗi em phải có một quyển vở riêng để viết chính tả ở nhà; đồng thời họp phụ huynh học sinh đầu năm để trao đổi về việc học của các em. + Giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm, thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh để trao đổi về việc học của các em để có biện pháp giáo dục, rèn luyện kịp thời. + Trong giảng dạy, giáo viên phải kết hợp nhiều biện pháp làm sao cho lớp học sinh động, gây hứng thú học tập, thì các en học tập mới có kết quả tốt. C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận. Tôi đã áp dụng sáng kiến này với học sinh lớp 5B trong giờ chính tả và các môn học khác, nhất là môn Tiếng Việt và có kết quả khả quan. Kết quả đánh giá tất cả các môn, học sinh lớp tôi đều đạt hoàn thành và hoàn thành tốt. Từ sáng kiến này, tôi đã cùng đồng nghiệp trong khối 5 trao đổi và cả khối cùng áp dụng. Từ kết quả thu được, tôi đã mạnh dạn đề xuất với chuyên môn của trường để sáng kiến này có thể áp dụng được trong đơn vị khi dạy chính tả nhằm rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho những học sinh hay viết sai chính tả. Qua thời gian thực hiện đề tài, tôi thấy học sinh đã xóa đi mặc cảm về lực học yếu của mình trở thành người ham học hơn, nắm chắc kĩ năng viết chính tả khi bước vào bậc học trung học cơ sở. Trên đây là một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5 nhằm giúp giáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy, góp phần hoàn thành nhiệm vụ năm học. Qua nghiên cứu, tôi nghĩ: nếu áp dụng các biện pháp trên vào quá trình giảng dạy, học sinh không chỉ viết đúng mà còn viết đẹp, hiểu được nội dung bài viết. Qua đó hình thành ở học sinh những phẩm chất đạo đức, đức tính kiên trì và còn tạo cho các em thêm niềm vui hứng thứ trong học tập, tính chăm chỉ viết bài. Tôi nhận thấy rằng việc sửa lỗi, nâng cao kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh cũng không phải làm một việc làm khó mà chỉ cần ta yêu nghề, mến trẻ, tận tình trong giảng dạy thì chắc chắn học sinh sẽ tiến bộ rất nhanh. Một điều nữa là phải biết phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo ở mỗi học sinh, biết động viên, khích lệ kịp thời, luôn tạo cho giờ học thoải mái, nhẹ nhàng. Khi nghiên cứu đề tài này, tôi muốn tự mình bước đầu phát hiện và giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tế giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh. Trên đây là một vài suy nghĩ của tôi về phương pháp dạy học chính tả cho học sinh lớp 5. Bản thân tôi sẽ rút kinh nghiệm và phấn đấu nhiều hơn nữa trong công tác giảng dạy. Mong rằng với vốn kinh nghiệm này, tôi sẽ khơi dậy trong các em tiềm năng của mình, để thông qua viết đúng, viết đẹp, nhân cách của các em cũng dần được hình thành. Cùng với việc cung cấp kiến thức, giáo dục đạo đức tác phong, các em sẽ là người được giáo dục toàn diện, xứng đáng là những chủ nhân chủ tương lai của đất nước. 2. Khuyến nghị: 2.1 Đối với nhà trường: Tổ chức các chuyên đề Chính tả theo từng chủ đề cho giáo viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Trang bị thêm đồ dùng dạy học. Đối với giáo viên: - Giáo viên cần có ý thức tự học, tự rèn, tham khảo các tài liệu, tạp chí, văn bản có liên quan đến chuyên môn và các dạng bài khó. Tìm hiểu và vận dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh. - Giáo viên Tiểu học cần thấy rõ tầm quan trọng của phân môn Chính tả, kiên trì rèn luyện cho các em viết đúng chính tả ngay từ các lớp dưới. - Nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, tích lũy thêm kinh nghiệm, giúp bản thân và các giáo viên trong khối 5 dạy tốt môn chính tả. - Trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp về dạy chính tả cho học sinh Tiểu học. - Đẩy mạnh phong trào thi đua viết đúng chính tả, rèn luyện chữ viết sạch đẹp cho học sinh. 2.3. Đối với học sinh: Học sinh cần có thói quen đọc sách báo, truyện phù hợp lứa tuổi. Học sinh tự tin, mạnh dạn phát biểu trong các hoạt động học tập, có kĩ năng trong giao tiếp ứng xử. Tăng cường hoạt động thảo luận nhóm. Đề tài này tôi đã cố gắng tìm tòi, phát hiện song trong quá trình nghiên cứu thực hiện do kinh nghiệm của bản thân còn có những hạn chế nhất định nên đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của tổ khối chuyên môn, ban giám hiệu và các bạn bè đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn chính tả nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tôi xin cam đoan đề tài trên là do tôi nghiên cứu và thực hiện tại lớp 5B, trong năm học 2021 - 2022. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Ba Vì , ngày 15 tháng 4 năm 2022 Người viết Trần Thị Xuân TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí giáo dục Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục 2005 2. Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học Tập II. tác giả: GSTS Lê Phương Nga - Nguyễn Trí - Hà Nội 1995 3. Luyện thực hành tiếng Việt ở Tiểu học - Nhà xuất bản Đà Nẵng - năm 2003. 4. Dạy học Chính tả ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 2000. 5. Dạy Tập đọc ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục – năm 2000. 6. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - Tập I + II - Năm 2005 - Nhà xuất bản Giáo dục. 7. Tiếng Việt 4 tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 2005 8. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 1999.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_viet_dung.doc