Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh Lớp 1
- Sự hình thành hoạt động học tập ở trẻ lớp 1: Đi học lớp một là một giai đoạn mới trong cuộc đời của trẻ. Từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập là hoạt động có ý thức. Như phải ngồi nghe giảng bài, học bài những thay đổi đó làm cho một số em trong giờ học vần thường rụt rè, bỡ ngỡ chưa thích nghi được còn hamchơi, có tính tự do trong giờ học, không tập trung vì thế đòi hỏi giáo viên ở lớp trong giai đoạn học vần cần chú ý tạo nên động cơ học tập một cách nhẹ nhàng giúp các em hứng thú với việc học vần, chú trọng tận dụng các trò chơi học tập.
- Đặc điểm nhận thức của trẻ lớp 1: Các em chưa nhận biết được chính xác cáctri thức khi tri giác các đối tượng, khi học tiếng Việt 1hiện tượng phổ biến là học sinh đọc được cả tiếng nhưng không rõ được các bộ phận của tiếng, không phân biệt được sự khác nhau giữa các tiếng, các vần, giữa các con chữ. Nguyên nhân vì khả năng phân tích yếu chưa phân biệt được sự khác nhau về chi tiết của các chữ, các vần… vì thế giáo viên cần coi trọng khâu hướng dẫn học sinh phân tích tiếng , vần, chữ… sau khi cho các em tri giác toàn bộ các từ, tiếng.Ngoài ra trẻ lớp 1 thích tìm hiểu cái mới,ưa hoạt động, khả năng tập trung chú ý còn yếu. Do vậy cần tập trung các phương pháp trực quan, đàm thoại,trò chơi học tập.
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh Lớp 1

m vai tên của các con vật nào đó “Nói lên nhận xét của riêng mình về chúng” . (Em yêu, không thích con vật nào đó?. Tôi nắm bắt thực tế về khả năng nói của từng em để lựa chọn phương pháp, hình thức dạy luyện nói cho phù hợp với đối tượng.Phải chuẩn bị cho hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối tượng tùy nội dung từng bài. Tùy theo nội dung từng chủ đề mà tôi có định hướng cho học sinh luyện nói. Khi đặt câu hỏi để giúp các em luyện nói cho sát với nội dung bài. Tôi phải chuẩn bị và dự trù thêm một số câu hỏi cho từng đối tượng, đi từ câu hỏi tổng quát rồi mới gợi ý bằng những câu hỏi nhỏ (Khi các em lúng túng sẽ dễ dàng có cơ sở để theo sự định hướng của cô để luyện nói). e, Chuẩn bị tranh ảnh, phương tiện dạy học. Phục vụ cho phần luyện nói thêm sinh động. Ngoài những tranh ảnh được cấp, tôi đã sưu tầm thêm một số tranh ảnh khác liên quan đến bài dạy phần luyện nói thêm phong phú và gần gũi. Chẳng hạn như chủ đề về cây cối, hoa trái đưa những vật thật, tranh ảnh. Phân các chủ đề ra thành nhiều nhóm khác nhau để lựa chọn phương pháp, hình thức khác nhau, thay đổi cho phù hợp với cá nhận, nhómVới chủ đề gần gũi với học sinh như chủ đề “Ba má”, “Quà quê”, “Nhà trẻ”có thể cho học sinh sắm vai nhân vật thể hiện tình cảm của ông bà,ba mẹ đã yêu thương quan tâm,chăm sóc em. Hoặc những tình cảm,việc làm của em thể hiện sự hiếu thảo của một người cháu, người con với ông bà, cha mẹ của mình. Với những chủ đề lạ, khó hơn như chủ đề Vó bè, suối, đèo,thung lũng, lễ hội, Ao, hồ, giếng, Ruộng bậc thang tôi cho học sinh quan sát tranh thật kĩ. Tôi giới thiệu trực tiếp đó là vó bè .Tôi gợi ý để các em nói được dụng cụ đó đặt ở đâu, dung để làm gì. Chủ đề Ba Vì Sau khi cho học sinh quan sát tranh xong, tôi giới thiệu trực tiếp luôn. Tranh vẽ cảnh ở Ba Vì. Gợi ý cho các em nêu lên những cảnh vật có trong bức tranh đó. “Cảm nhận về cảnh vật ở đó như nào? Thích hay không thích? Tại sao thích?”. Phương tiện dạy học tranh ảnh trong sách giáo khoa là chính. Sưu tầm thêm một số tranh ảnh. g, Phương pháp và hình thức dạy: Do học sinh lớp 1 rất thụ động, ít giơ tay phát biểu. Học sinh phát biểu chỉ dừng lại ở trả lời những câu hỏi giáo viên nêu. Do vậy để giúp các em làm quen và phát triển khả năng nói tôi đã gợi ý bằng hệ thống câu hỏi qua phương pháp đàm thoại. Bước đầu chỉ dừng lại ở việc “Thầy hỏi, trò đáp”. Dựa trên lời nói của học sinh, tôi sẽ chỉnh sửa sao cho rõ gọn, đủ ý, diễn đạt ý theo nội dung câu hỏi xoay quanh chủ đề. Ví dụ: - Khi dạy hoạt động nói theo chủ đề “bê, nghe, bé” ở bài 25: u – ư giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi như sau: + Tranh vẽ là gì? (Tranh vẽ bê, nghe, bé) + Bê và nghé ăn gì? (bê và nghé ăn cỏ) + Bê là con của con gì? (Bê là con của con bò) + Nghé là con của con gì? (Nghé là con của con trâu) + Ba nhân vật trong tranh có gì chúng? (Ba nhân vật đều nhỏ) - Nếu các em trả lời đúng nhưng chưa thành câu, tôi chú ý uốn nắn sửa chữa ngay và cho học sinh nói lại để các em nhớ. Ví dụ: Khi giáo viên hỏi: + Bức tranh vẽ gì? Học sinh trả lời: Bê (nghé, bé) Lúc này giáo viên yêu cầu học sinh nói lại cho thành câu như sau: + Bức tranh vẽ bê (nghé và bé). Ví dụ: Chủ đề “Quà quê” Giáo viên đưa nội dung một số câu hỏi: Bức tranh vẽ gì? Quà quê gồm những thứ gì? Em thích quà gì nhất? Ai cho em quà? Được quà em chia cho mọi người không? Mùa nào thường có nhiều quà ở làng quê? Tôi dành những câu hỏi dễ (câu 1,3,4,5) cho các bạn học sinh nói chưa tốt, còn câu hỏi số 2,6 dành cho học sinh có năng lực nói tốt hơn. Khi các em học sinh trả lời tôi luôn chú ý các em nói thành câu, diễn đạt đủ ý, ví dụ: Bức tranh vẽ cảnh bà đang chia quà quê cho các bạn nhỏ. - Học sinh quan sát tranh và diễn đạt lại những gì đã quan sát được khi nhìn tranh. Mỗi hình vẽ trong tranh là một tình huống thể hiện chủ đề của bài. Khi học sinh đã quen với việc luyện nói, GV sẽ nâng dần hình thức trong quá trình dạy luyện nói . Chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở thật kĩ. Ban đầu là những câu hỏi để dành cho học sinh chọn và giúp cả lớp có được ý chính của chủ đề cần được luyện nói. Sau đó câu hỏi được nâng dần lên cao hơn. Chẳng hạn với chủ đề Chợ Tết . Tôi cho học sinh nghe nhạc về ngày Tết các em dễ dàng hình dung và nhận ra ngay chủ đề cần phải luyện nói về ngày Tết.Tôi đưa ra một số câu hỏi mở để từng cá nhân có thể trả lời dễ dàng như: + Tranh vẽ cảnh gì? + Trong tranh con thấy có ai và có những gì? + Họ đang làm gì? + Con đã đi chợ Tết bao giờ chưa? Một số câu hỏi khác khái quát hơn để các nhóm cùng thảo luận , diễn đạt ý , hoàn chỉnh thành một đoạn văn. + Mọi người khi đi chợ Tết thế nào? + Ba mẹ con đi chợ Tết thường mua những gì? + Con đã đi chợ Tết bao giờ chưa? Tổ chức các hoạt động trò chơi tạo hứng thú giúp các em mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia quá trình luyện nói. Chẳng hạn như chủ đề Nặn đồ chơi, Áo choàng, áo len, áo sơ mi, Ghế tựa, ghế xoay, ghế đẩu. Học sinh được tham gia chơi nặn hình bằng đất màu, hay chọn áo phù hợp với thời tiết Tổ chức luyện nói theo hình thức cá nhân, nhóm đôi, nhóm ba, nhóm bốn. Học sinh tự nói cho nhau nghe cùng trao đổi những nhận biết và bày tỏ những cảm xúc của mình về nội dung chủ đề luyện nói. Cần lưu ý để tạo ấn tượng tốt cho các em khi giảng dạy nói chung và khi đàm thoại nói riêng, giáo viên phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng, nói đủ ý, diễn đạt gãy gọn và trong quá trình rèn luyện cho học sinh qua từng câu, từng bài nên kiên trì, không nóng vội mà quát nạt, giận dỗi hay trách móc học sinh. Phải hết sức cởi mở, nhã nhặn với các đối tượng trong lớp tạo không khí vui vẻ, phấn chấn, động viên, khen thưởng kịp thời giúp các em có cảm giác thoải mái, hứng thú thì hoạt động nói mới diễn ra một cách thuận lợi, đạt hiệu quả. Nên chú trọng tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, những khó khăn của học sinh trong lớp để có sự chia sẻ, thông cảm động viên các em nói nhiều và mạnh dạn hơn bắt đầu từ những điều đơn giản nhất, dần dần tăng mức độ khó lên theo thời gian. i, Công tác chuẩn bị. Với một số chủ đề khó giáo viên phải nhắc học sinh chuẩn bị trước, để đến lớp có cơ sở tự tin nói. Ví dụ: Chủ đề luyện nói : “Gà ri, gà gô” Đây cũng là chủ đề khó đối với học sinh, đặc biệt là học sinh ở thành phố. Với chủ đề này tôi yêu cầu học sinh về nhà xem thông tin trên mạng, hỏi bố mẹ về hai loại gà này. Và tôi đã đưa ra những câu hỏi định hướng trước để học sinh chuẩn bị. Gà gô, gà ri thường sống ở đâu? Gà thường ăn gì? Chúng ta nuôi gà để làm gì? Nhà em có nuôi gà không, đó là loại gà gì? Đối với giáo viên: tôi đã tải video clip về hai loại gà ri, gà gô cho học sinh xem để dựa vào đó học sinh có thể nói được những hiểu biết của mình về gà ri, gà gô. Ví dụ: Chủ đề: Lễ hội (bài 33) Với bài này: sau khi học xong bài 32 tôi dặn dò học sinh về nhà, xem trên mạng về lễ hội hoặc con nhớ con đã tham dự lễ hội nào Chú ý quan sát kỹ cờ treo, con người và các hoạt động trong lễ hội và cũng đưa ra các câu hỏi gợi ý. Quê em có những lễ hội gì? Vào mùa nào? Trong lễ hội thường có những gì? (Cờ treo, con người, ăn mặc, hát ca, các trò chơi) Em đã được đi dự lễ hội nào chưa? Ai đưa em đi? Qua tivi hoặc nghe kể em thích lễ hội nào nhất? h, Xác định kĩ năng cần đạt khi dạy luyện nói. Trọng tâm khi dạy luyện nói cho học sinh tôi thường chú ý rèn kỹ năng nói to, rõ tiếng, nói thành câu, thành đoạn hoàn chỉnh hay, giàu cảm xúc với một ngữ điệu chân thành, tự nhiên. - Ngoài ra trong giao tiếp hằng ngày giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh giáo viên cũng phải hết sức chú ý phát hiện và sửa chữa kịp thời khi các em nói trống không, không đủ ý, xưng hô không phù hợp, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn. Trường hợp các em nhút nhát không muốn nói thì giáo viên gần gũi, động viên đặt câu hỏi và gợi ý để các em trả lời từ những điều đơn giản nhất trong cuộc sống. Ví dụ: + Hôm nay ai đưa em đi học? (Hôm nay bố đưa em đi học) + Em thích học nhất là môn nào? ( Môn Toán là môn em thích học nhất. Trong thời gian ( khoảng 2 tuần) đầu năm học, tôi hướng dẫn rõ ràng quy trình của một giờ học tiếng Việt gồm những hoạt động nào, yêu cầu của từng hoạt động này ra sao rồi cho các em thực hiện, đến đâu tôi nhắc nhở, uốn nắn đến đó dần các em đã quen với nề nếp, cách thức học trong các hoạt động này và chất lượng học tập ngày càng tiến bộ. Riêng ở hoạt động luyện nói, tôi hướng dẫn rất cụ thể các bước tiến hành như sau: Nhắc học sinh lắng nghe cô nêu yêu cầu, nêu xong yêu cầu học sinh nhắc lại xem các em có nắm được nội dung cô yêu cầu chưa, nếu chưa thì giáo viên giải thích thêm cho các em hiều. Khi đã hiểu ra vấn đề giáo viên tiến hành cho các em tập nói theo nhóm nhỏ (nhóm đôi) trong lúc các em nói, cô đến các nhóm lắng nghe để giúp đỡ, uốn nắn cách nói cho các em. Khi trình bày trước lớp nên cho các em nhận xét, tham gia sửa chữa để rút kinh nghiệm lẫn nhau. Khi yêu cầu các em cùng nói về một vấn đề nào đó thì có những em chỉ đưa ra câu trả lời giống y như bạn chứ chưa sáng tạo nói theo suy nghĩ của mình để tranh luận về vấn đề đó thì giáo viên nên động viên, gợi ý để các em nói khác đi để nội dung bài nói được mở rộng, sâu sắc và sinh động hơn. Đối với những học sinh thiếu tự tin, rụt rè, ít nói thì giáo viên chia nhỏ câu hỏi và hỏi nhiều lần, động viên, ghi nhận những đóng góp dù nhỏ của các em; với những trường hợp các em mói quá nhỏ cả lớp đều không nghe thấy thì giáo viên sắp xếp cho các em ngồi ở khoảng giữa lớp và giải thích cho các em hiểu là nói nhỏ như thế các bạn không nghe và không tham gia xây dựng bài tốt được, lớp học sẽ rất buồn chán. Từ đó yêu cầu các em nói lại, ở mỗi lần nói lại thì yêu cầu các em nói to hơn, to hơn nữa, dần dần các em sẽ quen với âm lượng nói thế nào là đủ nghe. Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ lộn xộn thì sau mỗi lần nói, giáo viên hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và nói lại thật phù hợp với yêu cầu đặt ra. Trong khi giáo viên phát hiện học sinh phát âm sai, hay dùng từ không đúng trong một số trường hợp thì giáo viên cần sửa chữa ngay và cho các em nói lại để ghi nhớ. i, Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh. Để phụ huynh học sinh kết hợp chặt chẽ với giáo viên trong việc dạy con học tập và giúp con luyện nói tốt thì: + Trong buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm tôi đã giúp phụ huynh học sinh hiểu được tầm quan trọng của việc nói như thế nào. + Từ đó tôi yêu cầu phụ huynh học sinh phải thực sự gương mẫu, trong việc nói năng phải có chừng mực, lịch sự, nhã nhặn, đủ ý, đủ câu với con và với mọi người xung quanh để con học tập rồi nói theo. Thường xuyên chú ý sửa sai khi con nói chưa đúng. Giúp con chuẩn bị luyện nói, chủ đề khó hướng dẫn con truy cập, tìm hiểu trên mạng internet hoặc báo chí. Đối với học sinh rụt rè, nhút nhát, nói nhỏ tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh học sinh động viên, chia sẻ, khuyến khích con thêm. Bám sát thông tư 22 của Bộ giáo dục ban hành để nhận xét động viên học sinh kịp thời, tạo hứng thú cho các em khi học luyện nói. + Ví dụ: Với những học sinh còn nhút nhát , chưa mạnh dạn nếu trình bày đúng chủ đề nhưng nói còn nhỏ giáo viên có thể khen “ Cô khen con nói đủ ý, đúng chủ đề nhưng nếu con nói to hơn nữa thì sẽ rất hay”. Hoạc những em khá giỏi , tự tin khi nói , có thể khen “ Cô khen con nói đúng chủ đề, rõ ý và rõ ràng, nhưng nếu con biết kết hợp cử chỉ, điệu bộ trong khi nói thì thật là tuyệt vời” Kết thúc vấn đề Thế giới ngôn từ không có điểm tận cùng, việc nói để ứng xử giao tiếp trong xã hội bằng tiếng Việt phải học tập suốt đời. Vì vậy để giúp học sinh nói tốt ngay từ lớp 1 là điều rất cần thiết, đáp ứng được mục tiêu của môn tiếng Việt, tạo điều kiện cho các em học tốt các môn khác và ở bậc cao hơn. Nó còn phù hợp với việc đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học hiện nay. Bằng tâm huyết của mình, tôi đã thực hiện tốt các biện pháp đã đề ra, qua thời gian thực hiện kết quả đạt được rất khả quan. Học sinh hứng thú học môn Học vần nhất là trong hoạt động luyện nói. Lớp học sinh động. Học sinh tích cực tự giác giơ tay để phát biểu ý kiến. Các em biết diễn đạt ý nghĩ, vấn đề, cảm xúc của mình một cách tự nhiên, nói đủ nghe, khá gãy gọn. Khoảng 70% học sinh nói thành một đoạn văn 3-4 câu đúng với nội dung cần luyện nói. Những em rụt rè, nhút nhát đã nhanh nhẹn, tích cực hơn, cũng đã nói được thành câu đơn giản và giải thích sự việc theo ý hiểu của mình. Đó là điều làm cho tôi cảm thấy rất vui vì đã uốn nắn được các em phát huy theo hướng tích cực. Kết quả cụ thể như sau: Thời gian HS nói tốt Tỷ lệ (%) HS nói chưa tốt Tỷ lệ (%) Giữa học kì I 20 33,3% 40 66,7% Cuối học kì I 34 56,7% 26 43,3% Giữa học kì II 47 78,3% 13 21,7% KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Kết luận Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Yêu cầu luyện nói cũng nhằm mục đích phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Do vậy tôi đã bước đầu nghiên cứu và áp dụng mọi hình thức nhằm giúp việc giảng dạy đạt hiệu quả. Tôi thiết nghĩ mỗi người giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách nhẹ nhàng , biết cách khơi gợi, kích thích, động viên và tổ chức cho học sinh tích cực học tập, nói năng hứng thú, bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình một cách hồn nhiên độc đáo là điều mà giáo viên cần làm. Mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình, gương mẫu, luôn đổi mới phương pháp dạy học, luôn thay đổi hình thức dạy học, luôn trau dồi nghiệp vụ, kiến thức, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao chất lượng dạy luyện nói. Khuyến nghị Để khả năng nói của học sinh tiếp tục được nâng cao, tôi mạn phép đưa ra một vài ý kiến đề xuất với các cấp chỉ đạo như sau: Cần trang bị thêm tranh ảnh, video, clip có nội dung liên quan đến chủ đề luyện nói để giúp giáo viên trong công tác giảng dạy. Tăng thời gian cho phần luyện nói ở tiết 2 môn Học vần. Hàng tháng tổ chức sân chơi học tập giữa các lớp để học sinh mạnh dạn giao tiếp với bạn khác lớp về kiến thức đã học. Trên đây là một số ý kiến và việc làm của riêng tôi về rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1. Tất cả những việc làm đó đều hướng tới một mục đích là cải thiện nâng cao chất lượng nói cho học sinh và hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển ngôn ngữ và trí tuệ lâu dài cho học sinh. Làm được như thế chúng ta đã góp phần nho nhỏ thực hiện thành công trong việc đổi mới chương trình sách giáo khoa mới của Bộ Giáo dục. Kính mong sự đóng góp ý kiến của hội đồng xét duyệt sáng kiến để việc giảng dạy của tôi đạt kết quả tốt. Tôi xin chân thành cảm ơn! (Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này là do tôi tự viết và không sao chép của ai) Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2017 Người viết MỤC LỤC I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Phạm vi nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 2 5. Đối tượng - Thời gian nghiên cứu 2 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3 1. Cơ sở lý luận 3 2. Thực trạng 4 2.1. Thuận lợi 4 2.2. Khó khăn 4 3. Những vấn đề chung về yêu cầu luyện nói ở lớp 1 5 4. Biện pháp hướng dẫn học sinh luyện nói 5 4.1. Luyện nói theo tranh 5 4.2. Luyện nói theo câu chuyện được nghe kể 7 5. Biện pháp đã thực hiện 9 6. Kết thúc vấn đề 17 III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 18 1. Kết luận 18 2. Khuyến nghị 18
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_luyen_noi.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh Lớp 1.pdf