Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh Khối 1

Qua khảo sát, theo dõi, kiểm tra học sinh của lớp do tôi chủ nhiệm, cho thấy tình hình chung như sau:

a. Thuận lợi:

Một số em đã biết tất cả các chữ cái khi vào đầu lớp Một.

Học sinh có đầy đủ SGK và đồ dùng học tập.

Đa số các em đều ngoan, lễ phép và biết nghe lời.

Một số em tiếp thu nhanh.

Phần lớn phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của con em.

b. Khó khăn:

Bước vào lớp Một các em còn bỡ ngỡ, chưa làm quen được với việc học ở Tiểu học.

Một số em còn nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn trong giao tiếp.

Một số em còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn và chưa thực sự chú ý đến lời nói trong giao tiếp hàng ngày như.

Vốn từ của các em còn quá ít ỏi, việc hiểu nghĩa của từ còn hạn chế.

Kĩ năng đọc, nói, viết, nghe chưa thực sự tốt.

Hệ thống phát âm của một số em chưa hoàn chỉnh.

+ Cách phát âm của một số em theo thói quen (nghe người lớn phát âm và thực hiện lại).

+ Lỗi về phát âm: sai phụ âm đầu tr/ch; s/x; p/b

doc 17 trang Thu Nga 25/06/2025 100
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh Khối 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh Khối 1

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh Khối 1
dễ dàng hơn. Khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình môi” nhằm hướng dẫn các em phát âm chuẩn xác hơn. Nếu học sinh chỉ nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì việc phát âm sẽ không đạt hiệu quả cao, vì trong môn Tiếng Việt 1 việc quan sát môi khi giáo viên phát âm là rất quan trọng.
Hướng dẫn học sinh xác định nguyên âm và phụ âm:
 + Khi phát âm các nguyên âm: phải há miệng, luồng hơi đi ra tự do, có thể kéo dài.
+ Khi phát âm các phụ âm: phải ngậm miệng lại, bật môi cho luồng hơi thoát ra, luồng hơi đi ra bị cản, không thể kéo dài được. Bằng cách phát âm đó học sinh dễ nhận biết nguyên âm, phụ âm. Nhìn miệng bạn phát âm để nhận biết và nhận xét.
Hướng dẫn học sinh xác định nguyên âm tròn môi và nguyên âm không tròn môi.
+ Khi phát âm các nguyên âm tròn môi (môi tròn).
+ Khi phát âm các nguyên âm không tròn môi (môi không tròn).
Học sinh sai vần “at” đọc thành “ac” hoặc “ac” đọc thành “at”: “bờ cát” đọc thành “bờ các”; “tê giác” đọc thành “tê giát” giáo viên cần hướng dẫn như sau:
+ Vần /ac/: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi. 
+ Vần /at/: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi. 
Học sinh sai lẫn dấu thanh (thanh nặng, thanh sắc, thanh huyền, thanh hỏi, thanh ngã).
+ Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu. 
+ Những tiếng có thanh sắc: đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngắn, đọc nhanh, không kéo dài. Bằng cách hướng dẫn (như một vài ví dụ nêu trên) học sinh có thể dễ dàng phát âm và đạt hiệu quả cao. 
+ Những tiếng có thanh ngã đọc hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao giọng.
+ Tiếng có thanh hỏi đọc dứt khoát, rõ ràng, không kéo dài, có thể kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên. 
+ Đưa tiếng vào từ cụ thể để học sinh phân biệt: 
Ví dụ: đổ/đỗ hướng dẫn học sinh phân biệt “đổ rác” với “hạt đỗ”; ngả/ngã hướng dẫn học sinh đọc để phân biệt “ngả ba / ba ngã”.
Hướng dẫn phân biệt vần “an và ang”.
+ Vần /an/: khi phát âm đầu lưỡi chạm vào chân răng.
+ Vần /ang/: khi phát âm đầu lưỡi hơi thụt vào trong.
Ví dụ: bàn /bàng; phân biệt “cái bàn” với “quả bàng”; làn/làng – phân biệt “cái làn” với “làng quê”.
Không những dùng lời nói để hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng đọc, giáo viên còn sử dụng những kí hiệu (động tác tay, vẽ kí hiệu ở phía trên góc trái của bảng lớp, ). Khi giáo viên đưa ra kí hiệu học sinh thực hiện, như vậy tạo cho học sinh kĩ năng quan sát, tập trung trong giờ học thành thói quen thường xuyên. 
Ví dụ: 
 + Yêu cầu đọc đồng thanh (Giáo viên thực hiện động tác đưa hai tay từ trong ngực ra phía trước).
+ Yêu cầu đọc nhóm đôi (giáo viên chỉ dùng nam châm gắn vào kí hiệu N ở bảng lớp).
Biện pháp 4. Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh: 
Rèn tính kiên trì cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng. Bản thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình thành tính cách ấy cho học sinh. Khi có được lòng kiên trì, học sinh sẽ vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao nhất. Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán nản, không muốn luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen. 
Ví dụ: “Em đã đọc được rồi đấy, em cố gắng lên nhé”; “Em đã đọc tốt hơn rồi, em cần cố gắng thêm tí nữa”; Được động viên như vậy, học sinh sẽ không nản lòng vì nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm được, bạn làm được thì mình cũng sẽ làm đượcTừ đó học sinh sẽ quyết tâm hơn. Trong số những học sinh phát âm sai, có một phần nhỏ học sinh do lười biếng, không muốn rèn luyện mình nên chỉ phát âm một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành quen nên phát âm không chuẩn xác. Với những học sinh này, giáo viên phải thật nghiêm khắc.
Biện pháp 5. Khuyến khích học sinh phát hiện và điều chỉnh lẫn nhau: 
Hoạt động dạy - học luôn luôn được thực hiện trong mối quan hệ tương tác: giáo viên với học sinh, học sinh với giáo viên, học sinh với học sinh. Một tiết học diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ trở nên đơn điệu, không phát huy được tích cực, chủ động của học sinh, đồng thời bầu không khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự nhiên, người giáo viên cũng không thể hiện rõ được vai trò là người chỉ dẫn để giúp các em tự tìm tòi, lĩnh hội kiến thức.
Trong quá trình rèn kĩ năng phát âm cho học sinh, giáo viên luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh với học sinh. Giáo viên cần chú trọng việc rèn đọc cho các em có kĩ năng nghe - nhận xét - sửa sai giúp bạn và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các tiết học trở thành một thói quen, tạo nền nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách. Thực hiện thường xuyên như thế sẽ tạo được bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đổi mới.
Trong quá trình dạy học tôi còn tổ chức thi đọc thông qua một số trò chơi “Thả thơ, chèo thuyền, bắn tên, ) nhằm rèn tính mạnh dạn, tự lập, sáng tạo cho các em. Học sinh biết chia sẻ và sửa sai cho bạn khi nghe bạn đọc. Qua các trò chơi nhằm gây hứng thú, kích thích, khơi dậy niềm say mê học tập của các em. Các em chậm tiến học tập cách đọc của các bạn, xem bạn là tấm gương để mình phấn đấu vươn lên.
Biện pháp 6. Luyện đọc đúng, đọc hay:
	Đọc đúng giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Đọc đúng giúp các em nói, viết, sử dụng ngôn từ một cách trong sáng có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng đọc mà còn phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú.
 Từ chỗ đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn tiến tới cho học sinh đọc được mức độ cao hơn (ngắt, nghỉ đúng nhịp, vần thơ, câu văn, đọc cao giọng, nhấn giọng để biểu đạt cảm xúc, ...).
 Hướng dẫn học sinh đọc theo từng từ, cụm từ để luyện đọc từng câu chứ không đọc từng con chữ, từng chữ rời rạc.
 * Đọc thể thơ: 
 Ví dụ: 
 + Bài “Bé vào lớp Một”; TV1 – T2; Tr48.
 + Giáo viên hướng dẫn đọc ngắt sau mỗi câu thơ.
	 Đồng hồ báo thức/
 Reng reng kêu vang/
	 Bé đã sẵn sáng/
	 Mặc quần mặc áo.//
 * Đọc văn xuôi:
 	Ngoài việc hướng dẫn đọc đúng từ, cụm từ, ngắt hơi sau các dấu phẩy, nghỉ hơi sau dấu chấm. Còn chú ý đến giọng đọc của bài.
	Ví dụ: + Bài “Bé Mai” TV1 -T2 – Tr51, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc: Giọng đọc cần phân biệt lời dẫn chuyện và lời của nhân vật. Giọng nói của bố và mẹ thể hiện sự ngạc nhiên..
	+ Ồ, con gái của mẹ đã thành người lớn rồi sao ? (Giọng ngạc nhiên)
 Đọc đúng, đọc hay, đọc rành mạch nắm được ý cơ bản của bài văn, bài thơ, bài đồng dao, đọc lưu loát và bước đầu có thể đọc diễn đọc diễn cảm bằng đọc thành tiếng và đọc thầm, đọc chữ in và đọc chữ viết.
 Tôi chú trọng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn cho từng học sinh, kết hợp hình thức đọc theo nhóm để nhiều học sinh được tham gia và tham gia nhiều lượt đọc trong một tiết học. Xen kẽ đọc đồng thanh để tạo không khí lôi cuốn học sinh chậm tiến, học sinh hay rụt rè vào hoạt động học. Đảm bảo toàn bộ học sinh được tham gia luyện đọc và càng được đọc nhiều lần càng tốt (tùy theo bài để chọn cách đọc).
Biện pháp 7. Quan tâm rèn luyện cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc:
 Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn Tiếng Việt mà tôi luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết học khác, trong hoạt động tập thể Bởi vì những lúc vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất, những lúc này các em thường nói tiếng địa phương, nói lóng, ... 
 Vì thế bản thân tôi thường xuyên quan sát, để ý đến các em, phát hiện những lỗi phát âm, cách dùng từ chưa đúng, để kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh thói quen phát âm chuẩn, sử dụng tiếng phổ thông khi nói dù ở bất cứ nơi đâu. 
Biện pháp 8. Tuyên dương, khuyến khích học sinh:
 Thường xuyên kiểm tra đánh giá kết hợp với biện pháp tuyên dương, khuyến khích các em, từ đó các em rất hứng thú, vui vẻ, tạo được không khí thoải mái, là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các lỗi mà các em mắc phải. Khi các em có tiến bộ, dù nhỏ nhất tôi cũng dùng những lời động viện để khuyến khích các em (VD: “Em đã phát âm đúng, cố lên em nhé”, “Em đã có tiến bộ hơn rồi, cô khen em”...), . Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà tôi còn khen cả những em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp bạn hơn, hứng thú với công việc đó hơn. 
Biện pháp 9. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh:
 Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo môi trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần một cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng. Một số trường hợp, học sinh phát âm sai không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do các em chưa hiểu cách phát âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương (rượu - riệu; nếu - niếu; hươu - hiêu; hưu – hiu; hữu – hĩu; nêu – niêu,...). Đối với những trường hợp trên, trong mỗi bài dạy, khi có từ ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em thường nói sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm sai theo cách nói của địa phương. 
 Với một số em cá biệt về phát âm, bản thân tôi đã gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và động viên để phụ huynh hướng dẫn thêm con em lúc ở nhà. Ngoài ra tôi còn trao đổi phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người trong gia đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là môi trường giáo dục cho các em khi ở nhà. 
CHƯƠNG 3
KIỂM CHỨNG CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI CỦA SÁNG KIẾN
	Với những biện pháp đã đưa vào áp dụng chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
1. Về tinh thần, thái độ và hứng thú học tập của học sinh.
- Học sinh có thái độ học tập đúng đắn, thích thú khi đến giờ học có mong muốn được trau dồi và bồi dưỡng vốn kĩ năng của mình.
- Học sinh tự giác học bài.
- Một kết quả không thể bỏ qua sau khi tôi áp dụng các biện pháp trên đó là tính cách của các em có nhiều thay đổi tích cực:
+ Các em trở nên kiên trì, nhẫn nại và cẩn thận hơn.
+ Các em có tinh thần đoàn kết với bạn bè trong lớp.
+ Tinh thần tự giác học nâng cao, không những thế các em còn biết giúp đỡ mọi người, bạn bè xung quanh mình.
+ Các em hòa đồng hơn, mạnh dạn và tự tin hơn trong mọi lĩnh vực.
2. Hiệu quả chất lượng học tập của học sinh
	- Qua áp dụng phổ biến đề tài của mình, tôi nhận thấy chất lượng của học sinh lớp tôi được nâng dần rõ rệt, hình thành và phát triển các kĩ năng đọc hiệu quả. Đến nay tôi đã thống kê được số liệu khả quan sau: 
Tiêu chí
Lớp thực nghiêm (1B )
Trước khi áp dụng biện pháp
Sau khi áp dụng biện pháp
TS
%
TS
%
Đọc chưa tốt (ấp úng, đọc ngọng...)
13
42
2
6,4
Đọc to, rõ ràng
11
35,4
14
45,2
Đọc tốt
7
22,6
15
48,4
 - Học sinh có ý thức học tập tốt hơn và có hứng thú đối với môn học, không cảm thấy nhàm chán khi đến giờ học.
- Học sinh có kĩ năng tốt hơn, viết chữ đúng mẫu, đẹp, gọn gàng, sạch sẽ.
3. Hiệu quả về mặt giáo viên
- Giáo viên cảm thấy tự tin hơn trong mỗi tiết dạy của mình do kiến thức mà giáo viên được trang bị một cách bài bản và chính xác.
- Các kĩ năng của giáo viên sẽ được trau dồi hơn từ đó sẽ truyền cho học sinh tình cảm, niềm say mê học tập.
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Những vấn đề quan trọng được đề cập đến:
Dạy đọc có ý nghĩa rất quan trọng trong dạy Tiếng Việt 1. Đầu tiên học sinh phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc là một công cụ để học các môn học khác. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập tốt. Tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Chính vì vậy, để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả. Giáo viên cần đưa ra những biện pháp nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh từ kĩ năng đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài; nâng cao dần kĩ năng đọc hiểu từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Qua đó nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt 1.
 Để đảm bảo mục tiêu bài học trong quá trình dạy học người giáo viên cần phải dạy cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, quan sát, phân tích, đặt vấn đề và lập kế hoạch giải quyết vấn đề, rèn cho học sinh tính kiên nhẫn, lòng say mê học tập, tạo hứng thú cho học sinh.
 Thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu sâu thiết kế, ... Phải hết sức linh hoạt, sáng tạo trong dạy học.
	 Thực sự có lòng yêu nghề mến trẻ, không ngại khó, ngại khổ mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo, tìm tòi cái mới, cái hay để dạy. Có được như vậy bài dạy sẽ thành công.
2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến:
Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1” lớp tôi đã có những thành quả, tiến bộ vượt bậc.
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào trong thực tiễn lớp, tôi thấy học sinh lớp tôi đã nhớ rõ các âm, vần đã học. Các em ghép tiếng và đọc tiếng rất nhanh. Bây giờ các em có thể đọc lưu loát một đoạn văn hay một khổ thơ. Nhiều em còn đọc ngắt nghỉ hơi tốt, đọc diễn cảm. Đây là một thành quả không những riêng tôi mà bất kì giáo viên lớp Một nào cũng mong muốn ở học sinh của mình.
3. Kiến nghị với các cấp quản lý:
a. Đối với tổ chuyên môn: Thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình giảng day môn Tiếng Việt.
 b. Đối với Lãnh đạo nhà trường: Thường xuyên tổ chức các tiết dạy chuyên đề: Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt để giáo viên được trao đổi về biện pháp giúp học sinh đọc tốt hơn..
 c. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo; Sở Giáo dục và Đào tạo:
Tăng cường cơ sở vật chất cho các Nhà trường góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
Duy trì các tiết chuyên đề cụm cho giáo viên.
Trên đây là một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh bản thân tôi đã vận dụng trong quá trình dạy học. Tôi tin rằng với kinh nghiệm nhỏ bé của mình không những góp phần vào việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 của trường đang giảng dạy mà có thể vận dụng được với các trường khác.
Tuy nhiên trong thực tế việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 chắc hẳn còn có nhiều biện pháp và việc làm cụ thể đem đến cho học sinh những giờ học hay hơn, thú vị hơn. Rất mong sự đóng góp và bổ sung của đồng chí, đồng nghiệp và cấp trên để sáng kiến của tôi được hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả tốt nhất. 
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
 Gia Đông, ngày 10 tháng 1 năm 2023
NGƯỜI THỰC HIỆN
Đào Thu Hương
PHỤ LỤC
Tài liệu tham khảo
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 (tập 1,2) - NXB Giáo dục Việt Nam 
Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 1 (tập 1, 2) - NXB Giáo dục Việt Nam 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_doc_cho_h.doc