Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh trong môn Tiếng Việt Lớp 4
Trên thực tế, những nội dung yêu cầu về bộ môn tập làm văn ở lớp 3 chưa cao, do vậy, khi lên lớp 4, đối với các em là một bước ngoặt lớn. Từ những dạng bài: Trả lời câu hỏi, kể chuyện đơn giản, nay các em phải làm quen với các kiểu bài, thể loại nhất định đòi hỏi các em phải có năng lực quan sát, suy luận, tưởng tượng phong phú. Các em phải biết vận dụng ngôn ngữ để diễn đạt ý nghĩ, tình cảm trong sáng, cảm xúc hồn nhiên, trí tưởng tượng và những ước mơ bay bổng của mình một cách có thứ tự, có hệ thống, đúng chính tả, đúng ngữ pháp. Về hình thức, ở lớp 3 các em mới chỉ dừng lại ở việc viết đoạn văn, nhưng tới lớp 4 yêu cầu đặt ra đã cao hơn, các em cần viết được một bài văn đúng cấu trúc: Mở bài, thân bài, kết bài. Từ đó, cho thấy đây chính là kĩ năng ứng dụng tổng hợp nhữngkiến thức của học sinh đã học trong các kĩ năng khác của môn Tiếng Việt và các môn học khác. Chínhvì vậy, tôi luôn suy nghĩ, tìm mọi biện pháp để khơi dậy những tiềm năng văn học trong mỗi học sinh. Những tiềm năng ấy là mạch suối nguồn tinh khiết tưới mát cho tâm hồn trẻ em hôm nay, giúp những mầm non văn học luôn xanh tươi và sẽ nở hoa, kết trái. Giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con ngườivà thiên nhiên đất nước, bộc lộ được cảm xúc cá nhân và phát triển nhân cách.
Từ nhận thức trên, Tôi đã cố gắng chăm chỉ, học hỏi để tìm ra cách thức dạy viết văn ở lớp 4 với mong muốn giúp các em thêm yêu thích hoạt động viết văn và có kĩ năng viết văn ngày càng tốt hơn. Từ những kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy rằng, bất cứ môn học nào muốn học tốt thì các em phải cảm thấy hứng thú, say mê với môn học đó. Với hoạt động viết văn cũng vậy, các em có hứng thú với giờ học thì kết quả học tập sẽ tốt hơn. Để giúp giờ Tập làm văn 4 trở nên nhẹ nhàng, đạt hiệu quả tốt, tôi đã quan tâm đến phươngpháp giảng dạy, chú ý tìm hiểu sử dụng nhiều phươngpháp cũng như hình thức dạy và học phù hợp với từng bài dạy.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh trong môn Tiếng Việt Lớp 4

h của Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Ngoài ra, chính nhờ có sự trải nghiệm thực tế, các con đã trang bị cho mình vốn từ đủ rộng mà vẫn đảm bảo sự chân thật gần gũi cho bài văn. Bài văn miêu tả cây cối của học sinh Ví dụ 2: Khi dạy học sinh viết văn miêu tả: “Viết bài văn miêu tả cây cối”, giáo viên đã tổ chức cho học sinh được trực tiếp quan sát được trải nghiệm, tích lũy vốn từ chỉ đặc điểm cho cây học sinh miêu tả. Trước khi quan sát, giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị phiếu quan sát, việc chuẩn bị phiếu quan sát sẽ giúp định hướng cho học sinh đối tượng và các đặc điểm của đối tượng cần quan sát. Đặc điểm bao quát Đặc điểm của từng bộ phận Sự vật, hoạt động có liên quan Hình dáng Tán lá . Thân Cành Lá . .. .. .. Thông qua hoạt động quan sát, học sinh được trực tiếp quan sát, các con hăng hái đặt câu hỏi và chia sẻ những điều mà mình quan sát được: Con thấy trên thân cây có phần phình ra là gì vậy cô? Ồ! Cô ơi hoa xoài kia ạ! Từ xa, con thấy cây như cái ô khổng lồ có nhiều tầng ạ! Tiết học tập làm văn trở nên hứng thú với học sinh, giúp các con mở rộng vốn từ giúp bài văn của học sinh gần gũi, chân thật hơn bao giờ hết. Hình ảnh trong tiết học quan sát cây cối Kết quả phiếu quan sát của học sinh Biện pháp thứ năm: Tập diễn đạt cho câu văn sinh động, có hình ảnh. Viết câu văn đúng ngữ pháp, vẫn chưa đủ mà phải viết hay, viết phải có nghệ thuật mới thành văn. Để các em viết được câu văn sinh động, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, tôi đã phải kiên trì luyện tập cho các em theo phương châm đi từ thấp đến cao. Dùng từ gợi tả màu sắc, âm thanh. Giúp các em thấy được ưu việt của các từ gợi tả màu sắc, âm thanh khi miêu tả sự vật. Các dạng bài để luyện tập: Dạng 1: Cho một câu văn, một đoạn văn hoặc đoạn thơ hay có sử dụng các từ gợi tả màu sắc, âm thanh để học sinh tự tìm và nêu cái hay của mỗi từ đó. Ví dụ 1: Hãy nêu rõ tác dụng gợi tả của mỗi từ láy sau: Quýt nhà ai chín đỏ cây, Hỡi em đi học hây hây má tròn Trường em mấy tổ trong thôn Ríu ra ríu rít chim non đầu mùa. Tố Hữu Trả lời: Tác dụng gợi tả: + Hây hây (má tròn): màu da đỏ phơn phớt trên má, tươi tắn và đầy sức sống. + Ríu ra ríu rít: nhiều tiếng chim kêu hay tiếng cười nói trong và cao, vang lên liên tiếp và vui vẻ. Ví dụ 2: Trong đoạn văn dưới đây, tác giả dùng những từ ngữ nào để gợi tả hình dáng con chim gáy? Cách dùng từ ngữ như vậy đã giúp em hình dung được con chim gáy như thế nào? Con chim gáy hiền lành, béo nục. Đôi mắt nâu trầm ngâm ngơ ngác nhìn xa, cái bụng mịn mượt, cổ yếm quàng chiếc tạp dề công nhân đầy hạt cườm lấp lánh biêng biếc. Chàng chim gáy nào giọng càng trong, càng dài thì quanh cổ càng được đeo nhiều vòng cườm đẹp. Trả lời: Những từ ngữ gợi tả hình dáng con chim gáy: béo nục, đôi mắt nâu trầm ngâm ngơ ngác nhìn xa, cái bụng mịn mượt, cổ yếm quàng chiếc tạp dề công nhân đầy hạt cườm lấp lánh biêng biếc. Cách dùng từ ngữ của tác giả đã giúp ta hình dung được con chim gáy rất cụ thể và sinh động; nó có vẻ đẹp thật hiền lành, phúc hậu và đáng yêu. Dạng 2: Cho đoạn văn hoặc câu văn thiếu hình ảnh, chưa diễn đạt cụ thể để học sinh tự sửa bằng cách thêm những từ gợi tả màu sắc, âm thanh. Ví dụ: + Cô giáo đưa ra câu "Nước sông chảy vào đồng". Câu này thiếu hình ảnh, giáo viên đã hướng dẫn học sinh thêm từ ngữ gợi tả màu sắc, âm thanh: "Nước sông tung bọt trắng xóa, chảy ào ào vào đồng". + Sửa câu "Mấy con chim hót trong bụi cây" (thiếu âm thanh) thành câu "Mấy con chim nhảy nhót, hót ríu rít trong bụi cây". 2.5.2. Đưa nghệ thuật vào bài văn Sử dụng biện pháp so sánh Khi học về biện pháp so sánh, phần lớn các em chỉ nhận ra hình ảnh so sánh trong các câu văn. Để các em có thói quen sử dụng biện pháp so sánh tạo ra những câu văn hay, giáo viên hãy giúp các em biết cảm nhận cái đẹp, cái mới của sự vật khi được so sánh. Các dạng bài để luyện tập: Dạng 1: Cho một câu văn, một đoạn văn hay có sử dụng biện pháp so sánh để học sinh tự tìm và nêu cái hay của biện pháp so sánh đó. Ví dụ: Tìm cái hay của biện pháp so sánh trong câu ca dao sau: "Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Dạng 2: Giúp học sinh biết so sánh sự vật này với sự vật khác làm câu văn cụ thể hơn. Học sinh biết dùng thành thạo các từ dùng để so sánh: như, bằng, giống, tựa như, Ví dụ: Học sinh viết: Rễ cây dài ngoằn ngoèo nổi lên mặt đất. Sửa lại là: Rễ cây dài ngoằn ngoèo nổi lên trên mặt đất giống như những con rắn hổ mang trườn về nhiều phía. Dạng 3: Hãy thêm vế câu để có hình ảnh so sánh thích hợp vào mỗi ô trống để mỗi dòng dưới đây trở thành câu văn có ý mới mẻ, sinh động. Ví dụ: + Lá cọ tròn, xòe ra nhiều phiến nhọn, dài, trông xa như (bàn tay vẫy hoặc mặt trời mới mọc,). + Hoa bỏng treo lủng là lủng lẳng từng chùm trên cây như (những chiếc đèn lồng nhỏ xíu hoặc những đốm lửa,). Dạng 4: Luyện tập so sánh: cho đoạn văn thiếu hình ảnh, chưa diễn đạt cụ thể, ít cảm xúc hoặc cho những sự vật cụ thể để học sinh tự sửa bằng cách thêm biện pháp so sánh hoặc viết những câu văn có hình ảnh so sánh.. Tóm lại: Với cách làm như vậy, trí tưởng tượng của học sinh sẽ ngày càng phong phú, khả năng diễn đạt câu văn cũng ngày được nâng cao. Các bài viết của các em hay hơn, giàu hình ảnh, hấp dẫn, sinh động hơn. Tập dùng biện pháp nhân hóa Đây là biện pháp nghệ thuật rất quen thuộc đối với học sinh lớp 4. Với việc sử dụng các hình ảnh nhân hóa, chúng ta đã giúp cho bài văn trở nên sinh động, gần gũi hơn. Giáo viên nên để học sinh tập phát hiện các biện pháp nhân hóa được sử dụng, nâng một bước mới cho các em tập sửa từng trường hợp cụ thể. Ví dụ: Tìm câu văn hay trong các cặp câu sau: Thân chuối màu đen khô ráp vì nắng gió. Chị chuối thật giản dị trong bộ áo đen khô ráp vì nắng gió. Gốc hồng màu đen xám. Gốc hồng như người mẹ già đi trong bộ áo xám đến nhường sắc non xanh cho hoa, cho lá. Bông hồng nhung vươn cao. Bông hồng nhung kiêu hãnh vươn cao, hình như cô rất tự hào với sắc đẹp của mình. Nắng chiếu đầy vòm lá. - Nắng tinh nghịch giỡn đùa trên vòm lá. Kết quả sau khi áp dụng giải pháp sáng kiến tại đơn vị: Từ những ý tưởng cho sáng kiến tôi đã cố gắng hoàn thiện những biện pháp trên và ứng dụng một cách khoa học, phù hợp với đặc điểm thực tế của lớp tôi và của trường tôi. Kết quả đã phần nào khẳng định những biện pháp mà tôi đưa ra có tính hiệu quả cao. Cụ thể: Học sinh: Các em đón nhận tiết học rất sôi nổi, hào hứng và tự giác. Biết cách lập sổ tay văn học và có thói quen ghi chép lại những hình ảnh đẹp, những câu văn hay, những chi tiết xúc động. Biết cách trình bày, trao đổi, tranh luận về những vấn đề gần gũi với đời sống và phù hợp với trình độ của học sinh lớp 4. Các em được rèn 4 kĩ năng nghe, nói, viết, đọc. Nhiều em không những nói, viết thành câu mà còn biết diễn đạt rõ ý, sinh động và gợi cảm. Đặc biệt các em biết cách lập dàn ý cho bài văn, rút ra dàn ý từ đoạn văn đã cho sẵn hay chuyển dàn ý thành đoạn văn, bài văn. Một số em (chủ yếu là nam) thời gian đầu năm học còn không thích học thậm chí còn sợ môn Tập làm văn xuất phát từ lí do môn này khó viết, khó nói, phải học nhiều dạng bài. Nhưng cho đến nay, những em đó thấy tự tin hơn, đã không cảm thấy ngại khi học Tập làm văn. Hơn nữa các em được trau dồi từng bước về cảm thụ văn học, giúp cho việc viết câu văn, đoạn văn hay bài văn hay hơn, hồn nhiên, trong sáng và bộc lộ cảm xúc. Nhiều em yêu thích môn Tập Làm văn vì nó sôi nổi, đề tài phong phú, cung cấp cho các em nhiều kiến thức, giúp các em bộc lộ cảm xúc của mình, và giúp các em biết cách nói, cách viết được những câu văn hay. Giáo viên: Việc sử dụng các biện pháp dạy học trên nhằm nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh đã đã giúp cho tôi đã đạt được những yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học. Đó là: Chuyển từ phương pháp truyền thụ sang phương pháp mới: Tích cực hoá hoạt động của học sinh, trong đó giáo viên đóng vai trò người tổ chức hoạt động của học sinh, tháo gỡ khó khăn, thắc mắc của học sinh. Vì vậy trong tiết học, tôi không phải nói nhiều như trước đây. Giữa giáo viên và học sinh có sự phối hợp nhịp nhàng, gây hứng thú cho cả giáo viên và học sinh. Giờ học sôi nổi, vui vẻ, nhẹ nhàng, không còn căng thẳng, nặng nề như trước. Chính nhờ học tốt phân môn Tập làm văn đã giúp cho kết quả chung của môn Tiếng Việt cũng cao hơn. Các em yêu thích học phân môn tập làm văn và kĩ năng viết văn của các em được cải thiện đáng kể. Hiệu quả của sáng kiến: Hiệu quả về khoa học: - Các biện pháp đưa ra hoàn toàn phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh: đi từ trực quan sinh động đến tư duy. Nhiều học sinh đầu năm kĩ năng viết văn còn kém thì đến cuối năm bài viết cũng đạt yêu cầu của đề bài, bố cục bài rõ ràng, nội dung đầy đủ các ý, các ý sắp xếp logic. Hiệu quả về kinh tế: Giáo viên tiết kiệm được thời gian, chủ động hơn trong các tiết hướng dẫn viết văn. Xây dựng kế hoạch bài dạy đạt hiệu quả không mất thời gian chỉnh sửa và chi phí in ấn. Ngoài ra, những biện pháp trên không tốn nhiều chi phí để làm đồ dùng , nguyên vật liệu. Giáo viên và học sinh có thể sử dụng những đồ dùng sẵn có (giấy A4, bút màu,) những vật dụng này cũng đang được dùng trong môn mĩ thuật nên sẽ không mất thêm nhiều chi phí để mua mới. Hiệu quả về xã hội: - Các biện pháp kể trên giúp khởi dậy được ở các em sự hứng thú tích cực với môn học. Sau khi đưa vào thử nghiệm những biện pháp trên, mức độ hứng thú của học sinh với hoạt động viết văn đã thay đổi rõ nét. Thể hiện: Giai đoạn Tổng số HS Thích học môn TLV Bình thường Không thích học môn TLV Số HS Số % Số HS Số % Số HS Số % Trước thử nghiệm 43 22 51,2% 9 20,9% 12 27,9% Sau thử nghiệm 43 32 74,4% 10 23,3% 1 2,3% Như vậy qua bảng số liệu có thể thấy số học sinh yêu thích tập làm văn tăng lên đáng kể (từ 51,2% tăng lên 74,4%, như vậy tăng 23,2%), số học sinh không yêu thích tập làm văn cũng nhờ đó giảm đi (từ 27,9% xuống còn 2,3%, như vậy giảm 25,6%). Các em biết sử dụng từ ngữ, ngôn ngữ phong phú cần thiết cho bài biết của mình. Trong giờ học các em tập trung hơn, say sưa cùng bạn bè quan sát đối tượng miêu tả, Các em có thể tự mình viết những câu văn hay, từ ngữ gợi tả, gợi cảm, khả năng diễn đạt của các em cũng được cải thiện. Ngoài ra, việc học tốt phân môn tập làm văn cũng giúp học sinh bồi đắp nuôi dưỡng tình cảm của bản thân với gia đình, với quê hương, và với đất nước. Việc viết văn tốt cũng sẽ giúp các em học tốt các môn học khác. Tính khả thi (khả năng áp dụng vào thực tiễn công tác của đơn vị, địa phương...): - Việc áp dụng đề tài vào thực tiễn hoàn toàn phù hợp với điều kiện của Trường, của địa phương và hoàn cảnh của học sinh. + Phù hợp về điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị + Phù hợp về đặc điểm nhận thức của học sinh Thời gian thực hiện đề tài, sáng kiến. - Từ tháng 9 năm 2023 đến tháng 3 năm 2024 Kinh phí thực hiện đề tài, sáng kiến. Kinh phí thực hiện đề tài sáng kiến không đáng kể, vì tận dụng được những đồ dùng, học liệu, của nhiều môn học khác. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT. Kết luận Vậy mỗi tiết của hoạt động viết muốn đạt hiệu quả cao, người giáo viên cần phải biết sáng tạo và biết kết hợp hài hòa các biện pháp dạy học. Hơn thế nữa, người giáo viên cần phải tận tâm với nghề, với bài dạy; phải nghiên cứu, đào sâu suy nghĩ bài dạy của các hoạt động: đọc, luyện từ và câu; nói và nghe/đọc mở rộng vì nó tác động và có quan hệ mật thiết với hoạt động viết văn của học sinh. Các hoạt động này giúp học sinh mở rộng vốn từ, hiểu và vận dụng từ, vận dụng những câu văn, đoạn văn hay ở bài Tập đọc vào bài văn. Mặt khác phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Bài văn phản ánh vốn từ ngữ, vốn sống, kinh nghiệm và trải nghiệm của học sinh. Chất lượng của bài văn phụ thuộc vào vốn từ ngữ, vào năng lực của mỗi em, vào điều kiện của gia đình. Với những phương pháp tôi đưa ra và tiến hành thử nghiệm trên đây đã giúp học sinh lớp 4A trường Tiểu học Đồng Thái thêm yêu thích và hứng thú hoạt động viết văn, kĩ năng diễn đạt, chất lượng bài viết cũng được cải thiện và nâng cao. Trên đây là “Một số biện pháp nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh trong môn Tiếng Việt lớp 4” mà tôi đã áp dụng trong quá trình giảng dạy. Hi vọng đề tài này góp một phần nhỏ bé trong việc giúp học sinh vững vàng trong việc viết văn để lên tiếp các lớp sau. Hoạt động viết văn luôn là nội dung khó và kém hấp dẫn hơn các nội dung khác nhưng hết sức quan trọng trong môn Tiếng Việt. Tuy vậy để giờ học trở lên nhẹ nhàng thực sự lôi cuốn các em, mỗi giáo viên chúng ta cần biết lựa chọn, khéo léo sử dụng các biện pháp dạy học kết hợp tổ chức các hoạt động phong phú. Sự hứng thú, say mê trong giờ học sẽ giúp các em chủ động khám phá và lĩnh hội kiến thức. Nhờ đó các em sẽ đạt được kết quả cao trong học tập, nâng cao trình độ Tiếng Việt nói riêng và trình độ văn hoá nói chung. Đề xuất Để mỗi tiết học viết văn thành công, người giáo viên thực sự thấy tự tin trong quá trình giảng dạy và có thể xử lí các tình huống trước học sinh. Qua thực tiễn giảng dạy và kết quả đạt được, tôi đã rút ra những kinh nghiệm sau: Ngay từ đầu năm học, giáo viên phải có sự tìm hiểu trao đổi với giáo viên chủ nhiệm cũ và có kế hoạch phân loại chất lượng viết văn của học sinh trong lớp để từ đó có biện pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh. Cần phối hợp nhiều phương pháp giảng dạy trong giờ học để tiết học thêm hấp dẫn và sôi nổi. Luôn có thói quen tích lũy các bài văn hay của học sinh làm tư liệu. Kiên trì, uốn nắn cho học sinh. Luôn động viên, khuyến khích kịp thời các học sinh có tiến bộ để tạo hứng thú học tập và phát huy tính sáng tạo cho các em. Cần dạy tốt và có hiệu quả những nội dung đọc, luyện từ và câu, nói và nghe/đọc mở rộng trong môn Tiếng Việt và các môn học khác trong nhà trường qua đó trau dồi thêm cho học sinh vốn từ, những kinh nghiệm trải nghiệm để đưa vào bài văn. Luyện học sinh viết từ dễ đến khó: Từ cách viết câu văn hay đến viết đoạn văn hay rồi viết bài văn rồi viết bài văn hay sáng tạo với những từ ngữ bay bổng, đắt giá. Khuyến khích học sinh đọc sách tham khảo, sưu tầm câu văn, đoạn văn, bài văn hay lưu vào sổ tay văn học. Hệ thống câu hỏi được sử dụng trong giờ dạy phải ngắn gọn, dễ hiểu, gợi mở tư duy hứng thú của học sinh, điều chỉnh những câu hỏi chưa phù hợp với trình độ học sinh. Nên chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng trực quan, khái quát nội dung bài viết bằng sơ đồ tư duy giúp kích thích sự hứng thú và tăng khả năng ghi nhớ của học sinh. Luôn coi học sinh là nhân vật trung tâm của mọi hoạt động, giáo viên chỉ là người điều khiển, tổ chức, hướng dẫn học sinh phát hiện ra kiến thức mới. Mỗi người giáo viên không ngừng học tập, đọc thêm tài liệu, sách báo, sưu tầm thêm tư liệu, có ý thức ghi lại những câu văn hay, hình ảnh đẹp, trao đổi thường xuyên với đồng nghiệp. XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN (ký tên, đóng dấu) Ba Vì, Ngày 3 tháng 4 năm 2024 Người viết sáng kiến Đặng Thị Thanh Huyền TÀI LIỆU THAM KHẢO STT TÊN TÀI LIỆU 1 Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, sách giáo viên Tiếng Việt 4 2 Đọc sách giáo trình “ Phương pháp dạy Tiếng Việt Tiểu học” 3 Các tài liệu tập huấn chương trình thay sách lớp 4
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_ki_nang_viet.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh trong môn Tiếng Việt L.pdf