Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 4

Theo sách Tiếng Việt - Tập I: Trong văn miêu tả người ta không đưa những nét vẽ chung chung, những lời đánh giá trừu tượng về sự vật như: cái bàn này cũ, cái bút này hỏng,...văn miêu tả vẽ ra các sự vật, sự việc, hiện tượng, con người bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Văn miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như mình đang xem tận mắt, bắt tận tay. Tuy nhiên hình ảnh một cánh đồng, một dòng sông, một con vật, một con người, do văn miêu tả tạo nên không phải là bức ảnh chụp lại, sao chép lại một cách vụng về mà nó là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết đã thu lượm được khi quan sát cuộc sống.

Miêu tả là hòn đá thử vàng đối với các tài năng văn học, tạo nên sức hấp dẫn của các tác phẩm văn học. Đôi khi chỉ vài nét thôi, các tài năng đích thực đã tạo nên các bức tranh phong cảnh, những bức chân dung tuyệt diệu. Sự vật được miêu tả hiện ra lồ lộ và dường như đang rung rinh, đang chuyển động, đang sinh sôi, nảy nở...

Sự miêu tả trong văn chương có ưu thế riêng, khác biệt so với sự miêu tả bằng màu sắc, đường nét của hội hoạ. Dùng ngôn ngữ văn chương có thể miêu tả sự vật trong một quá trình vận động, có thể tả cả những thứ vô hình như âm thanh, tiếng động, hương vị, hay tư tưởng, tình cảm thầm kín của con người.

docx 11 trang Thu Nga 19/08/2025 180
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 4
ìm hiểu về tình cảm của tác giả:
+ Tác giả có tình cảm như thế nào với đối tượng miêu tả?
+ Câu văn nào cho em biết điều đó?
- Tìm hiểu về cách dùng từ, đặt câu:
+ Gạch chân những từ gợi tả.
+ Em học thêm được từ nào? Hình ảnh nào?
Từ đó, các em rút ra được những điều tổng quát hơn:
- Bố cục của bài văn miêu tả gồm 3 phần: MB - TB - KB.
- Khi quan sát để miêu tả, cần quan sát theo trình tự nhất định:
 + Từ bao quát đến chi tiết
 + Từ xa đến gần
 + Từ ngoài vào trong
 + Từ dưới lên trên (hoặc từ trên xuống dưới)
 - Cần quan sát tỉ mỉ và trong nhiều thời điểm khác nhau
- Khi miêu tả nên sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá sẽ giúp đối tượng miêu tả trở nên sinh động, gần gũi, dễ tưởng tượng và có tình cảm, có tâm hồn.
- Cần lồng cảm xúc, thái độ của mình với đối tượng miêu tả (có thể dùng các câu cảm)
     Không chỉ sử dụng các bài văn (đoạn văn) mẫu trong SGK mà mỗi bài văn (đoạn văn) hay của các em cũng có thể trở thành bài văn mẫu. Vì vậy trong quá trình dạy học, khi gặp những bài làm tốt, tôi luôn cho các em phân tích kĩ để các em học tập cái hay của bạn. Cuối tiết học, tôi phô tô và treo ở cuối lớp để các em cùng được đọc và tham khảo. Việc này như một mũi tên mà trúng hai đích: Các em giỏi sẽ hào hứng học tập; các em đuối hơn sẽ học được cái hay, cái tốt của bạn mà noi gương.
     2.2. Lập dàn bài chi tiết
     Sau mỗi bài lí thuyết tìm hiểu về một kiểu bài, cô và trò chúng tôi thường cùng nhau xây dựng một dàn bài chi tiết cho kiểu bài ấy. Dàn bài này sẽ giống như một khung xương cho bài văn. Nó sẽ giúp cho các em có định hướng trong quan sát và miêu tả khiến cho bài văn luôn đủ ý và có trọng tâm.
VD: Dàn bài văn miêu tả cây cối
1. Mở bài: Giới thiệu về cây sẽ tả: cây gì? trồng ở đâu? từ bao giờ? vì sao em lại chọn tả cây đó?
2. Thân bài:
- Tả các đặc điểm của cây
+ Tả bao quát: độ lớn, nhìn từ xa...
+ Tả chi tiết:
* Cách 1: Tả lần lượt các bộ phận của cây theo một trình tự nhất định (nên chọn một vài bộ phận tiêu biểu để miêu tả và chọn tả trọng tâm theo yêu cầu của đề bài):  rễ, thân cây, cành cây,... lá và tán lá,... hoa, quả,...
* Cách 2: Tả đặc điểm tiêu biểu của cây theo quá trình phát triển
. Tả theo mùa: xuân, hạ, thu, đông,...
. Tả theo thời tiết: khi nắng, khi mưa,...
. Tả theo thời gian: sáng, trưa, chiều, tối, đêm,...
. Tả theo thời kì phát triển: lúc còn non, khi trưởng thành, khi đơm trái, khi trái chín,...
- Tả các hoạt động xung quanh cây: hoạt động của con người( vui chơi, chăm sóc, ngắm cây,...), hoạt động của con vật( ong, bướm, chim chóc,...)
Tuy nhiên, không nhất thiết phải bắt buộc miêu tả theo một trong hai cách trên mà ta có thể lồng ghép cả hai cách miêu tả trong một bài văn. Có nghĩa là ta vừa miêu tả theo từng bộ phận của cây vừa chọn miêu tả một trong các bộ phận đó theo các thời điểm khác nhau.
Ví dụ: Khi viết bài văn miêu tả một cây ăn quả, ta có thể tả các bộ phận của cây như: gốc, thân, cành, lá,.. nhưng khi tả quả ta sẽ tả cây khi quả còn non, khi quả chín,...
Với cách viết như vậy sẽ làm cho bài văn không bị gượng ép và giúp cho cách miêu tả tỉ mỉ hơn.
     3. Kết bài: Cảm nghĩ, ích lợi, chăm sóc cây.
     Tôi luôn lưu ý học sinh: Đây chỉ là dàn bài gợi ý còn cách viết của các con có thể linh hoạt bằng nhiều cách khác nhau, có thể kết hợp cả hai cách. Song tôi luôn nhấn mạnh, điều quan trọng là con tìm được điểm đặc trưng của đối tượng miêu tả sao cho nó hiện lên trong bài văn của mình chân thật và sống động tránh lối viết sáo mòn hay bay bổng nhưng thiếu thực tế.
     3. Phân tích đề bài
     Đây là việc làm vô cùng quan trọng, nó tạo cho các em có thói quen làm việc khoa học, có trình tự, tạo tiền đề cho học văn ở lớp trên.
Với mỗi đề bài tập làm văn đưa ra, tôi đều yêu cầu các em phải phân tích đề. Bước đầu là những câu hỏi của GV:
- Thể loại?
- Kiểu bài?
- Nội dung miêu tả?
- Trọng tâm miêu tả?
Sau đó các em phải tự phân tích và trả lời. Làm như vậy khiến cho bài làm của các em luôn bám sát đề bài, có trọng tâm.
Ví dụ: Em hãy tả một cây ăn quả.
Các em sẽ xác định như sau:
- Thể loại: Văn miêu tả.
- Kiểu bài: Tả cây cối.
- Nội dung: Tả cây cam, bưởi, chuối...
- Trọng tâm: Quả, thời kì cây đậu quả.
     2.4. Quan sát và ghi chép
     Bài văn sẽ rất sơ sài, thiếu thuyết phục nếu các em không được quan sát tận mắt, sờ tận tay. Chính vì vậy phần này được tôi coi là quan trọng nhất. Tuy nhiên các em học sinh chưa biết cách quan sát để viết văn nên cần sự hướng dẫn tỉ mỉ của giáo viên. Thường trong bài quan sát đầu tiên, tôi cho các em quan sát tại lớp để dễ bề giúp đỡ.
Ví dụ; + Kiểu bài tả đồ vật: Các em mang một món đồ chơi đến trường để quan sát.
            + Kiểu bài tả cây cối: Tôi cho các em quan sát cây ngay tại sân trường.
     Thông thường các em chỉ biết dùng mắt để quan sát nên nhận xét thu được thiếu phong phú. Tôi hướng dẫn các em sử dụng các giác quan khác để quan sát thông qua các câu hỏi như: Sờ tay vào con thấy thế nào? Hương thơm của hoa, quả ra sao? Nhìn lên tán lá đi, con có liên tưởng đến điều gì không? Ngắm kĩ cây xem nó có gì nổi trội khiến con thích nó? Cái cây mà con quan sát phải là cây thật, những chi tiết mà con ghi lại phải sống động để ta có cảm giác như cây đó đang rung rinh trong gió.
     Nếu có vật thật thì tốt, nếu không các em quan sát bằng tranh ảnh.
     - Trước tiên, các em quan sát và ghi chép vào nháp những điều mình quan sát được theo dàn bài chi tiết.
     - Sau đó, các em trình bày kết quả quan sát trong nhóm hoặc trước lớp để các bạn góp ý, bổ sung. Và tôi luôn đặt câu hỏi để em nhận ra: Em đã ghi lại được đặc điểm nổi trội của đối tượng miêu tả đó chưa? Cây mà em quan sát đã có những chi tiết để nó trở nên sống động chưa?
VD1: Đề bài: Tả một cây bóng mát
Kết quả quan sát của em Lê Thùy Trang như sau:
1. Mở bài: cây bàng, ở giữa sân trường, không biết trồng từ bao giờ
2.Thân bài
* Tả bao quát: cao bằng nóc nhà tầng hai, trông xa như người lính trẻ vui tính với chiếc áo xanh mướt, cái quần nâu đã bạc mầu và đôi giầy trắng (bác bảo vệ đã quét lên thân cây một lớp vôi )
* Tả chi tiết:
+ Gốc: to, xù xì, màu nâu sẫm
+ Thân: to như cột đình, một mình em dang hai tay ôm mới xuể, có những lớp vỏ màu nâu nhạt bong ra, với nhiều u bướu và vết sẹo
+ Cành: đâm ra tua tủa, cành to, cành nhỏ, cành dài, cành ngắn, không cân đối
 + Lá: đậu dày, chi chít, xanh mướt mát, che kín một khoảng sân trường, lá bàng to, dày màu xanh ngọc
 +Hoa: nở vào đầu thu, màu vàng,  như hoa sao.
 + Quả: hình thoi, mọc thành chùm, ăn bùi bùi, chua chua, ngòn ngọt.
 * Hoạt động quanh cây: chúng em vui chơi, trò chuyện, tuổi thơ em lớn lên dưới tán lá bàng
3. Kết bài: Yêu cây bàng, mãi mãi ghi nhớ những ngày tháng tốt đẹp bên cây
     2.5. Mở rộng vốn từ:
     Việc mở rộng vốn từ cho học sinh là việc làm không chỉ tiến hành trong giờ Tập làm văn mà nó được làm ở mọi nơi, mọi lúc: trong giờ Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện.
     Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ xin đưa ra một cách tôi vẫn thường làm trong các giờ Tập làm văn mà có hiệu quả rất cao. Đó là tổ chức những trò chơi tìm từ có cùng trường nghĩa:
Ví dụ: - Khi học văn miêu tả cây cối, các em sẽ thi tìm những từ:
+ Tả màu sắc, hình dáng, mùi vị của các loại quả.
- Giáo viên treo tranh 1 cây và yêu cầu các em hãy tìm những từ, ngữ miêu tả cây đó.
Các em được chơi theo nhóm nên bổ sung vốn từ cho nhau và học nhau rất nhanh. Hoạt động này sẽ làm giàu vốn từ của các em mà không hề tốn nhiều công sức.
VD: Các em đó tìm được các từ ngữ, hình ảnh sau tả về màu sắc, hình dáng, mùi vị của các loại quả:
           Hình dáng 
            Màu sắc
              Mựi vị
tròn xoe, mũm mĩm, nhỏ xíu, mọc thành chùm, như vầng trăng khuyết bé xíu, thon vút như con thoi,như những chiếc đèn lồng thắp trong lùm cây, .
đỏ chót, xanh pha vàng, vàng ươm màu trứng cuốc,chùm sao xanh treo lủng lẳng, nắng nhuộm cho những chùm quả trở nên vàng thắm, nâu già hạn, 
ngọt lịm, bùi bùi, chua chua, thơm phảng phất, chua ngọt rất đậm đà, ngọt đến đam mê, chua mà ngọt đến mức em ăn không biết chán, hương thơm thoang thoảng ...
     2.6. Tập bộc lộ cảm xúc trong bài văn
     Bài văn sẽ khô khan, thiếu sức sống và không thể gọi là bài văn hay nếu không có cảm xúc. Tôi dạy các em, cảm xúc không phải là phần dành riêng cho đoạn kết bài mà nó phải được bộc lộ trong từng câu, từng đoạn.
     - Trước tiên tôi gợi ý các em bằng những câu hỏi qua các bài cụ thể như:
+ Ngồi dưới bóng mát của cây bàng, em cảm nhận được điều gi?
+ Nhìn những đoá hồng đang khoe sắc, em có cảm xúc gì?
+ Nếm cái vị chua chua ngòn ngọt của những trái cam đầu mùa, em nghĩ đến ai? đến điều gì?
+ Tại sao em lại thích ngồi dưới bóng mát của cây?
     -  Hoặc cho các em thêm từ ngữ để tạo cảm xúc cho câu văn như:
Với câu: Những quả cam tròn, chín mọng treo lủng lẳng.
Các em đã sửa như sau:
+ Những quả cam tròn, chín mọng treo lủng lẳng trông thật thích mắt.
+ Nhưng thích nhất là khi trái rộ, những quả cam tròn, chín mọng treo lủng lẳng.
+ Ôi, những quả cam tròn , chín mọng treo lủng lẳng mới đẹp làm sao!
- Từ đó các em sẽ biết cách viết những câu văn không chỉ giàu hình ảnh mà còn giàu cảm xúc nữa.
     Ngoài ra việc viết những đoạn văn kể cũng có tác dụng bộc lộ cảm xúc trong bài. Tôi thường nói với các em học sinh của tôi rằng: “Không nhất thiết phải nói yêu mới là yêu”. Đôi khi ta kể về những hoạt động như chăm sóc, nêu ích lợi và kể về sự gắn bó của mình với cây đó cũng đã bộc lộ tình cảm với cây đó.
Ví dụ như khi tả về cây hoa hướng dương, một em học sinh đã kể ngắn gọn về sự tích loài hoa này. Hay có em học sinh lại kể về những trò chơi diễn ra dưới gốc bàng trong giờ ra chơi. Hoặc có em lại kể về việc em đã nhặt những cánh phượng vĩ và ép vào trang sách.
     Tất cả những điều đó đã nói lên tình yêu của người viết với đối tượng miêu tả. Từ đó, khi viết đoạn kết bài, nếu có em học sinh viết: “ Em rất yêu cây và coi cây như người bạn của em.” Các em học sinh của tôi thường nói hài hước với nhau rằng: “Đó là cách kết bài truyền thống!”
     2.7. Tập viết đoạn văn ngắn.
     Đoạn văn là 1 phần cấu tạo của bài văn. Viết được những đoạn văn hay sẽ có một bài văn hay. Tư tưởng này cũng được thể hiện rất rõ trong chương trình phân môn Tập làm văn ở lớp 4. Trong chương trình Tiếng Việt lớp 4, phần văn miêu tả cây cối, SGK chỉ yêu cầu các em viết chính thức 2 bài văn hoàn chỉnh. Trong khi đó có tới 9 đoạn văn yêu cầu các em phải viết mới hoặc hoàn chỉnh. Ngoài ra, cách nói viết đoạn văn ngắn sẽ giúp các em không ngại học văn.
     Việc nói, viết những đoạn văn ngắn trong tiết học được tôi luôn coi trọng: Hướng dẫn tỉ mỉ, dành thời gian cần thiết để các em học sinh viết bài, chữa bài cẩn thận, ngợi khen và treo bài hay ở cuối lớp. Ngoài ra trong các giờ hướng dẫn học, tôi khuyến khích các em viết đoạn văn ngắn. Bước đầu là những đoạn văn đơn giản như:
- Cho một số từ: cây bàng, mùa thu, xanh ngọc, bùi bùi, hình thoi,...
Hãy viết 1 đoạn văn ngắn, có sử dụng các từ trên.
Sau đó là những bài tập khó hơn.
- Hãy viết 1 đoạn văn có câu mở đoạn như sau:
Khi có buồng, trông cây chuối như một người mẹ đang cõng con.
 Khó hơn nữa là viết đoạn văn có nội dung cụ thể
- Hãy viết một đoạn văn ngắn tả bông hoa sen
Và kết quả thật bất ngờ các em đã viết được những đoạn văn rất giàu hình ảnh, giàu cảm xúc.
     2.8. Luyện cách viết mở bài, kết bài
     Trong một bài văn thì nội dung chính cũng được coi là phần quan trọng nhất đó là phần thân bài. Chính vì vậy các em học sinh ít khi bỏ thời gian, công sức vào phần mở bài và kết bài bài vì cho là nó không “ăn điểm”. Đây là một suy nghĩ sai lầm. Vì lẽ đó tôi luôn động viên các em: Phần mở bài rất quan trọng - nó như cánh cửa mời khách vào nhà. Còn phần kết bài là những gì mà vị khách ấy lưu giữ lại khi ra khỏi bài văn của con. Vì vậy con đừng bỏ qua hai phần nhỏ, đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọng này, đừng ngại “đầu tư” vào nó.
      SGK hướng dẫn học sinh 2 cách mở bài là: trực tiếp và gián tiếp; 2 cách kết bài là: mở rộng và không mở rộng. Học sinh có thể viết mở bài, kết bài theo kiểu nào cũng được nhưng không được tách rời nội dung của bài văn. Tránh cách viết xáo mòn na ná như nhau hay viết qua quýt cho xong. Vì vậy tôi luôn dành điểm cao hơn cho những học sinh không chỉ viết tốt phần thân bài mà còn có cách viết mở bài, kết bài hấp dẫn.
     Ngoài ra, tôi còn cho học sinh tập viết đoạn mở bài kết bài qua các bài tập như:
+ Hãy viết mở bài gián tiếp cho đề bài sau: “Sân trường em có rất nhiều loài hoa đang khoe sắc, em hãy tả một cây hoa mà em thích”
+ Hãy viết kết bài cho đề văn: “Tả một luống rau đến mùa thu hoạch.”
     2.9. Dạy tốt tiết trả bài.
     Tiết trả bài là giờ học mà các em tự rút kinh nghiệm cho bài học của mình và học cái hay, cái tốt của bạn. Dạy tiết trả bài có hiệu quả là làm thế nào để các em học sinh yếu học được cái hay của bạn, các em khác phát huy được cái tốt của mình.
     Muốn dạy tốt giờ học này, giáo viên phải chấm bài thật kĩ, chỉ lỗi rõ ràng và có lời phê tỉ mỉ, xác đáng. Kể cả những bài văn viết tốt, tôi cũng có nhận xét rất tỉ mỉ như: phần nào viết hay, phần nào cần sửa để hay hơn.
     Trong giờ trả bài, tôi dùng biện pháp khuyến khích là chính, không phê bình, chê bai một bài văn nào. Nếu có, chỉ là đưa ra những câu văn sai cho cả lớp cùng phát hiện và sửa giúp bạn .
     Tôi gọi những em khá sửa bài cho các em yếu và hỏi các em yếu rằng: 
“Em thích câu văn nào (phần nào) của bạn ? ”
     Cuối tiết học tôi luôn dành thời gian cho các em tự viết lại một đoạn trong bài của mình mà em thấy chưa ưng ý.
     Không chỉ trong tiết trả bài mà trong mọi tiết học, khi chữa bài của học sinh tôi thường chữa mẫu, tỉ mỉ một bài sau đó cho các em đổi vở tự chữa bài cho nhau. Tôi yêu cầu các em tìm cái hay của bạn và giúp bạn sửa lại những hạn chế. Chính những nhận xét của các em sẽ rất tự nhiên và phù hợp với lứa tuổi của các em. Hơn nữa, chữa bài cho bạn các em cũng có thể học được cái hay của bạn. Cuối tiết học tôi phô tô những bài có điểm cao nhất để treo ở cuối lớp.
     Việc chấm bài tỉ mỉ và chữa bài kĩ đã giúp các em rút kinh nghiệm cho bài văn kế tiếp, tạo cho các em tự tin hơn.
     C . Kết luận
     Sau một thời gian dài thầy và trò chúng tôi miệt mài học tập, kết quả thu được rất đáng khích lệ:
     Bài kiểm tra môn Tiếng việt giữa kì II, lớp tôi không có em nào đạt điểm dưới 8. Có tới 50/57 em  đạt điểm 9, 10 chiếm hơn 89%.
     Chất lượng viết văn của các em tiến bộ rõ rệt. Không khí học văn của cả lớp sôi nổi hào hứng. Khi có bạn nói ( đọc ) những câu văn khô khan, tối nghĩa, cả lớp cười ồ lên. Trái lại, với những đoạn văn hay, ý tưởng mới mẻ, cả lớp trầm trồ khen ngợi, thậm trí các em còn đột ngột vỗ tay. Những bài văn, đoạn văn được cô khen, các em xúm lại mượn bạn để xem và còn nói cả nhận xét của mình. Những bài văn được treo ở bảng tin của lớp luôn được các em đọc và nhận xét.
     Và đặc biệt, vui mừng hơn cả là mục tiêu mà tôi đặt ra từ đầu năm học đã được thực hiện: “Tôi đã làm cho học sinh của tôi không sợ môn văn nữa.” Thậm chí nhiều em còn thích học văn.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_v.docx