Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh Lớp 4
I. Cơ sở lí luận
Phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học thực hiện ba nhiệm vụ: giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ
Trong ba nhiệm vụ cơ bản nói trên, nhiệm vụ phong phú hoá vốn từ, phát triển, mở rộng vốn từ được coi là trọng tâm. Bởi vì, đối với học sinh tiểu học, từ ngữ được cung cấp trong phân môn Luyện từ và câu giúp các em hiểu được các phát ngôn khi nghe - đọc.
Ở một mức độ nào đó, phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học còn có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số khái niệm có tính chất cơ bản ban đầu về cấu tạo từ và nghĩa của từ Tiếng Việt.
II. Cơ sở thực tiễn
Nội dung chương trình, yêu cầu kiến thức, kĩ năng của phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh Lớp 4

g từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, hoạt động, trạng thái, Tôi chốt cho học sinh có hai loại tính từ đáng chú ý là: - Tính từ chỉ tính chất chung không có mức độ (xanh, tím, sâu, vắng,) - Tính từ chỉ tính chất có xác định mức độ - mức độ cao nhất (xanh lè, tím ngắt, sâu hoắm, vắng tanh,) Sau khi học sinh nắm chắc các khái niệm về tính từ, tôi hướng dẫn cho học sinh hiểu thế nào là cụm tính từ: - Tính từ có thể kết hợp với các từ chỉ mức độ như: rất, hơi, lắm, quá, cực kì, vô cùng,để tạo tạo thành cụm tính từ (khả năng kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh ( như động từ ) ngay trước nó là rất hạn chế). 2. Hướng dẫn học sinh phân biệt từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, từ chỉ trạng thái. - Từ chỉ đặc điểm: Đặc điểm là nét riêng biệt, là vẻ riêng của một một sự vật nào đó (có thể là người, con vật, đồ vật, cây cối,...). Đặc điểm của một vật chủ yếu là đặc điểm bên ngoài (ngoại hình) mà ta có thể nhận biết trực tiếp qua mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, mũi ngửi,... Đó là các nét riêng, vẻ riêng về màu sắc, hình khối, hình dáng, âm thanh,...của sự vật. Đặc điểm của một vật cũng có thể là đặc điểm bên trong mà qua quan sát, suy luận, khái quát,... ta mới có thể nhận biết được. Đó là các đặc điểm về tính tình, tâm lí, tính cách của một người, độ bền, giá trị của một đồ vật... Từ chỉ đặc điểm là từ biểu thị các đặc điểm của sự vật, hiện tượng như đã nêu ở trên. VD: + Từ chỉ đặc điểm bên ngoài: cao, thấp, rộng, hẹp, xanh, đỏ,... + Từ chỉ đặc điểm bên trong: tốt, ngoan, chăm chỉ, bền bỉ,... - Từ chỉ tính chất: Tính chất cũng là đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng (bao gồm cả những hiện tượng xã hội, những hiện tượng trong cuộc sống,...), nhưng thiên về đặc điểm bên trong, ta không quan sát trực tiếp được, mà phải qua quá trình quan sát, suy luận, phân tích, tổng hợp ta mới có thể nhân biết được. Do đó, từ chỉ tính chất cũng là từ biểu thị những đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Tốt, xấu, ngoan, hư, nặng, nhẹ, sâu sắc, nông cạn, suôn sẻ, hiệu quả, thiết thực,... Như vậy, khi dạy học sinh phân biệt (một cách tương đối) từ chỉ đặc điểm và từ chỉ tính chất, tôi định hướng cho học sinh: Từ chỉ đặc điểm thiên về nêu các đặc điểm bên ngoài , còn từ chỉ tính chất thiên về nêu các đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng. Một quy ước mang tính sư phạm như vậy được coi là hợp lí và giúp học sinh tránh được những thắc mắc không cần thiết trong quá trình học tập. - Từ chỉ trạng thái: Tôi hướng dẫn cho học sinh hiểu Trạng thái là tình trạng của một sự vật hoặc một con người, tồn tại trong một thời gian nào đó. Từ chỉ trạng thái là từ chỉ trạng thái tồn tại của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan. Ví dụ: Trời đang đứng gió . Người bệnh đang hôn mê. Cảnh vật yên tĩnh quá. Mặt trời toả ánh nắng rực rỡ. Xét về mặt từ loại, từ chỉ trạng thái có thể là động từ, có thể là tính từ hoặc mang đặc điểm của cả động từ và tính từ ( từ trung gian ), song theo như định hướng trong nội dung chương trình SGK, ở cấp tiểu học, tôi hướng dẫn học sinh xếp chúng vào nhóm động từ. 3. Hướng dẫn học sinh cách phân bi ệ t các danh từ, động từ, tính từ dễ lẫn lộn Tôi lưu ý học sinh: Để phân biệt các danh từ, động từ, tính từ dễ lẫn lộn, ta thường dùng các phép liên kết ( kết hợp ) với các phụ từ. *Danh từ: - Có khả năng kết hợp với các từ chỉ số lượng như: mọi, một, hai, ba, những, các,... ở phía trước; những tình cảm, những khái niệm, những lúc, những nỗi đau,... - Danh từ kết hợp được với các từ chỉ định: này, kia, ấy, nọ ,đó,... ở phía sau hôm ấy, trận đấu này, tư tưởng đó,... - Danh từ có khả năng tạo câu hỏi với từ nghi vấn “ nào” đi sau ; lợi ích nào ? chỗ nào? khi nào?... - Các động từ và tính từ đi kèm: sự, cuộc, nỗi, niềm, cái,... ở phía trước thì tạo thành một danh từ mới; sự hi sinh, cuộc đấu tranh, nỗi nhớ, niềm vui,... - Chức năng ngữ pháp thay đổi cũng cũng dẫn đến sự thay đổi về thể loại: Ví dụ: Sạch sẽ là mẹ sức khoẻ. sạch sẽ (tính từ) đã trở thành danh từ. * Động từ: - Có khả năng kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh: hãy, đừng, chớ,... ở phía trước; hãy nhớ, đừng băn khoăn, chớ hồi hộp,... - Có thể tạo câu hỏi bằng cách đặt sau chúng từ bao giờ hoặc bao lâu (tính từ không có khả năng này) đến bao giờ? chờ bao lâu?... *Tính từ: - Có khả năng kết hợp được với các từ chỉ mức độ như: rất, hơi, lắm, quá, cực kì, vô cùng,... rất tốt, đẹp lắm,... Tôi lưu ý với học sinh: Các động từ chỉ cảm xúc (trạng thái ) như : yêu, ghét, xúc động,... cũng kết hợp được với các từ: rất, hơi, lắm,.... Vì vậy, khi còn băn khoăn một từ nào đó là động từ hay tính từ thì nên cho thử kết hợp với hãy, đừng, chớ,...nếu kết hợp được thì đó là động từ. Các bài luyện tập: Sau khi học sinh nắm được chắc kiến thức tôi đưa ra hệ thống bài tập tương tự cho học sinh luyện tập để củng cố lại các kiến thức đã học giờ hướng dẫn học như sau: Bài 1: Cho các từ sau: Bác sĩ, nhân dân, hi vọng, thước kẻ, sấm, văn học, cái, thợ mỏ, mơ ước, xe máy, sóng thần, chiếc, bàn ghế, gió mùa, xã, huyện, phấn khởi, tự hào, mong muốn, truyền thống, hoà bình. a. Xếp các từ trên vào hai loại: Danh từ và không phải danh từ. b. Xếp các danh từ tìm được vào các nhóm: Danh từ chỉ người, danh từ chỉ vật, danh từ chỉ hiện tượng, danh từ chỉ khái niệm, danh từ chỉ đơn vị. * Đáp án: a. - Không phải danh từ: phấn khởi, tự hào, mong muốn. b. - Danh từ chỉ hiện tượng: sấm, sóng thần, gió mùa. - Danh từ chỉ khái niệm: văn học, hoà bình, truyền thống. - Danh từ chỉ đơn vị: cái, xã, huyện. Bài 2: Tìm chỗ sai trong các câu sau và sửa lại cho đúng: Bạn Vân đang nấu cơm nước. Bác nông dân đang cày ruộng. Mẹ cháu vừa đi chợ búa. Em có một người bạn bè rất thân. *Đáp án: Các từ cơm nước, ruộng nương, chợ búa, bạn bè đều có nghĩa khái quát, không kết hợp được với ĐT mang nghĩa cụ thể hoặc với từ chỉ số ít ở trước. Cách sửa: Bỏ tiếng đứng sau của mỗi từ; nước, nương, búa, bè => Qua hệ thống bài tập trên đã giúp học sinh rất nhiều trong việc ghi nhớ, ôn tập và khắc sâu kiến thức. Những bài tập này tôi rèn học sinh vào những giờ hướng dẫn học đã giúp cho chất lượng học môn luyện từ và câu tốt hơn. DẠNG 3: CÂU PHÂN LOẠI THEO MỤC ĐÍCH NÓI. 1. Giáo viên hệ thống, tổng hợp kiến thức cho học sinh. *Câu hỏi: (Tuần 13- Lớp 4 ) - Câu hỏi (còn gọi là câu nghi vấn) dùng để hỏi về những điều chưa biết. - Phần lớn câu hỏi là để hỏi người khác, nhưng cũng có câu hỏi dùng để tự hỏi mình. - Câu hỏi thường có các từ nghi vấn: ai, gì, nào, sao, không,...Khi viết, cuối câu hỏi phải có dấu chấm hỏi. *Câu kể: (Tuần 16- Lớp 4) - Câu kể (còn gọi là câu trần thuật) là câu nhằm mục đích kể, tả hoặc giới thiệu về sự vật, sự việc; hoặc dùng để nói lên ý kiến hoặc tâm tư của người. Cuối câu kể phải ghi dấu chấm. - Câu kể có các cấu trúc: Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì? * Câu khiến: (Tuần 27- Lớp 4) - Câu khiến (câu cầu khiến, câu mệnh lệnh) dùng để nêu yêu cầu, đề nghị, mong muốn,... của người nói, người viết với người khác. - Khi viết, cuối câu khiến ghi dấu chấm than hoặc dấu chấm. - Muốn đặt câu khiến, có thể dùng một trong những cách sau: + Thêm từ hãy hoặc đừng, chớ, nên, phải,... vào trước động từ. + Thêm từ lên hoặc đi, thôi, nào,...vào cuối câu. + Thêm từ đề nghị hoặc xin, mong,...vào đầu câu. - Dùng giọng điệu phù hợp với câu khiến. Trong giảng dạy tôi lưu ý cho học sinh: Khi nêu yêu cầu, đề nghị, phải giữ phép lịch sự. Muốn vậy, cần có cách xưng hô cho phù hợp và thêm vào trước hoặc sau động từ các từ Làm ơn, giùm, giúp,... - Ta cũng có thể dùng câu hỏi để nêu yêu cầu, đề nghị. * Câu cảm: (Tuần 30- Lớp 4) - Câu cảm (câu cảm thán) là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng, thán phục, đau xót, ngạc nhiên,...) của người nói. - Trong câu cảm, thường có các từ: Ôi, chao, chà, quá, lắm, thật,... Khi viết, cuối câu cảm thường có dấu chấm than. . Các bài luyện tập Sau khi học sinh nắm được chắc kiến thức tôi đưa ra hệ thống bài tập tương tự cho học sinh luyện tập để củng cố lại các kiến thức đã học giờ hướng dẫn học như sau: Bài 1: Đặt câu cảm, trong đó có: Một trong các từ: Ôi, ồ, chà đứng trước. Một trong các từ lắm, quá, thật đứng cuối. *Đáp án: Ví dụ: Ôi, biển đẹp quá! Bài 2: Chuyển các câu sau thành các loại câu hỏi, câu khiến, câu cảm: Cánh diều bay cao. Gió thổi mạnh. Mùa xuân về. *Đáp án : Ví dụ a. - Cánh diều bay cao không? DẠNG 4: CÁC THÀNH PHẦN CỦA CÂU CHỦ NGỮ, VỊ NGỮ, TRẠNG NGỮ. 1 . Hệ thống, tổng hợp kiến thức cho học sinh. - Câu được phân tích ra thành nhiều thành phần, trong đó có những thành phần chính và những thành phần phụ. - Chủ ngữ (CN) - Vị ngữ (VN) - Trạng ngữ(TN) 2 . Hướng dẫn học sinh làm bài tập: Với những câu mang nội dung thông báo kép học sinh rất dễ bị nhầm lẫn khi xác định chủ ngữ và vị ngữ. Tôi đưa ra ví dụ cho học sinh phân tích và tìm hiểu. Ví dụ: Con gà / to, ngon. Con gà to / ngon. Những con voi về đích trước tiên / huơ vòi chào khán giả. Những con voi / về đích trước tiên, huơ vòi chào khán giả . Suối chảy / róc rách. Tiếng suối chảy / róc rách. Tôi hướng dẫn học sinh như sau: - Yêu cầu xác định đúng mẫu câu: Ở phần này, khi hướng dẫn HS tìm chủ ngữ, vị ngữ, tôi yêu cầu HS xác định đúng mẫu câu ( Ai là gì? Ai làm gì ?Ai thế nào? ) Tôi hỏi HS: + Câu này thuộc mẫu câu nào ? + Mục đích thông báo chính của câu là gì? - Tôi hướng dẫn cụ thể như sau: Ví dụ a) và b): + GV hỏi: Câu “Con gà to, ngon” ý nói gì ? HSTL: ý nói con gà vừa to, vừa ngon. + GV: Vậy to và ngon cùng giữ chức vụ gì trong câu? HSTL: là hai vị ngữ song song, chủ ngữ trong câu là Con gà + GV câu “Con gà to ngon” ý nói gì? Nếu học sinh không hiểu thì tôi gợi ý giúp các em: vì không có dấu phẩy tách giữa to và ngon nên ta phải hiểu là: Con gà to thì ngon. Nội dung thông báo chính ở đây là: Con gà ngon. Vậy vị ngữ chỉ là ngon. Còn to bổ nghĩa cho danh từ Con gà. Do đó chủ ngữ là Con gà to. Ví dụ c) và d): Câu: “Những con voi về đích trước tiên, huơ vòi chào khán giả” - Tôi gợi ý để học sinh hiểu tương tự như trên: Nội dung câu thông báo có hai ý: + Ý 1 là: Những con voi về đích trước. + Ý 2 là: Những con voi huơ vòi chào khán giả. Vậy có hai vị ngữ song song là: về đích trước tiên và huơ vòi chào khán giả, còn chủ ngữ chỉ là: Những con voi. Câu “Những con voi về đích trước tiên huơ vòi chào khán giả” - Tôi giúp học sinh hiểu là: Những con voi về đích trước tiên đã huơ vòi chào khán giả. Nội dung thông báo chính là: Những con voi đã huơ vòi chào khán giả. Vậy huơ vòi chào khán giả là vị ngữ, còn về đích trước tiên bổ nghĩa cho Những con voi đứng ở khối chủ ngữ. Ví dụ e) và f: - Suối chảy róc rách. + Tôi hỏi học sinh: Suối thế nào ? ( Suối “chảy róc rách” ). + Tôi yêu cầu học sinh xác định chủ ngữ và vị ngữ. Giáo viên chốt: chảy róc rách là vị ngữ. Còn Suối là chủ ngữ . - Tiếng suối chảy róc rách. + Tôi hỏi học sinh: Tiếng suối như thế nào ? + Nếu học sinh trả lời là: Tiếng suối “chảy róc rách” + Thì tôi hỏi lại: Tiếng suối có chảy được không? (không chảy được mà chỉ nghe được bằng tai). + Vậy tiếng suối ở đây nghe như thế nào?( nghe róc rách ). Tôi chốt cho học sinh: Vậy vị ngữ phải là róc rách, còn chảy làm rõ nghĩa cho Tiếng suối (đứng ở khối chủ ngữ). . Các bài luyện tập: Bài 1: Tìm chủ ngữ, vị ngữ và trạng ngữ của những câu văn sau: a. Vào một đêm cuối xuân 1947, khoảng 2 giờ sáng, trên đường đi công tác, / Bác Hồ / đến nghỉ chân ở một nhà ven đường . b. Ngoài suối, trên mấy cành cây cao, / tiếng chim, tiếng ve / cất lên inh ỏi, râm ran. Bài 2: Tìm chủ ngữ, vị ngữ của các câu sau: a. Sóng / vỗ loong boong trên mạn thuyền. b. Tiếng sóng vỗ / loong boong trên mạn thuyền. c. Những con chim bông biển trong suốt như thuỷ tinh / lăn tròn trên những con sóng. V. Kết quả đạt được 1. Học sinh: - Các em đón nhận tiết học rất sôi nổi, hào hứng và tự giác. - Biết cách trình bày, trao đổi, tranh luận về những vấn đề gần gũi với đời sống và phù hợp với trình độ của học sinh lớp 4. - Các em được rèn 4 kĩ năng nghe, nói, viết, đọc. Nhiều em không những nói đúng, sử dụng đúng từ ngữ trong nói và viết mà còn nói được hay hơn. - Hơn nữa các em cảm thấy yêu quý, tự hào và có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt thông qua phân môn Luyện từ và câu. 2. Giáo viên: Việc biết sử dụng các biện pháp dạy học như đã nêu đã giúp cho tôi đã đạt được những yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học. Đó là: - Giữa tôi và học sinh có sự phối hợp nhịp nhàng, gây hứng thú cho cả giáo viên và học sinh. - Giờ học sôi nổi, vui vẻ, nhẹ nhàng, không còn căng thẳng, nặng nề như trước. * Chính nhờ học tốt phân môn Luyện từ và câu đã giúp cho kết quả chung của môn Tiếng Việt cũng cao hơn, cụ thể: Các đợt kiểm tra Sĩ số HS Số bài trên trung bình Số bài trung bình Số lượng % Số lượng % Kiểm tra chất lượng đầu năm 60 40 66,7% 20 33,3% Giữa học kì I 60 45 80% 12 2% Cuối học kì I 60 52 86,7% 8 3,3% PHẦN C: KẾT LUẬN I. Kết quả: Khi áp dụng những biện pháp trên vào việc giảng dạy phân môn Luyện từ và câu, tôi thu nhận được một số kết quả sau: 1. Về kiến thức: Học sinh được; - Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ. - Trang bị các kiến thức giảng dạy về từ và câu; từ, cấu tạo từ, từ loại. - Nắm chắc các kiểu câu: Câu hỏi, câu kể, câu khiến, câu cảm. - Học sinh biết thêm trạng ngữ trong câu: Trạng ngữ chỉ thời gian, nơi chốn, nguyên nhân, mục đích, phương tiện. 2. Về kĩ năng: Học sinh có khả năng; - Nhận biết được cấu tạo của tiếng, từ, từ loại, biết đặt câu với những từ đã cho. - Nhận biết các kiểu câu, các trạng ngữ, đặt câu theo mẫu. - Biết xác định chủ ngữ, trạng ngữ, vị ngữ trong câu. 3. Về thái độ: - Các em yêu thích học phần mở rộng vốn từ. Tự tin, mạnh dạn hơn trong học tập và giao tiếp - Tỉ lệ học sinh dùng từ chính xác, từ hay tăng lên, kĩ năng viết văn có tiến bộ rất nhiều. II. Kết luận - Kiến nghị: Để nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt, trước hết mỗi giáo viên không được xem nhẹ một phân môn nào trong môn Tiếng Việt, cũng như một mảng kiến thức nào, lập kế hoạch bài học chú ý phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để thu hút học sinh chủ động nắm kiến thức. Phải luôn nghiêm túc thực hiện giảng dạy theo nguyên tắc từ đơn giản đến phức tạp, quan tâm bồi dưỡng tất cả các đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, không ngừng học tập nâng cao trình độ kiến thức, tích lũy kinh nghiệm, học hỏi đồng nghiệp, tích cực tìm tòi cái mới áp dụng vào dạy học nhằm đạt kết quả cao nhất. Qua thực tế giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp, tôi đưa ra một số dạng tiêu biểu trong phạm vi kiến thức luyện từ và câu ở lớp 4, phù hợp với nhận thức của các em. Còn rất nhiều dạng bài hay mà tôi chưa đề cập đến trong đề tài này.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_g.docx