Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài tập làm văn cho học sinh Lớp 4

Năm học ……, khi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4A với tổng số học sinh là 24 em. Trong quá trình giảng dạy môn Tập làm văn, tôi nhận thấy nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc của một bài văn miêu tả nhưng bài làm của các em còn rập khuôn, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và nghèo hình ảnh. Đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh. thiếu ý, thiếu chi tiết,...; chưa biết cách dùng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm; vốn từ lại nghèo nàn. Bởi vậy bài văn của các em thường cộc lốc, lủng củng, khô khan, nghèo cảm xúc. Bài văn trở thành một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả,Trước tình trạng đó, tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp các em làm bài văn đảm bảo theo yêu cầu và giàu cảm xúc.

Thuận lợi- khó khăn:

* Thuận lợi :

Trường tiểu học ..... đại đa số học sinh hiếu học và gia đình quan tâm đến việc học của con em mình. Đời sống người dân tương đối ổn định. Ban giám hiệu tạo điều kiện tốt cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Giáo viên nắm vững được nội dung chương trình, nhiệt tình trong giảng dạy.

* Khó khăn:

Một số học sinh còn hiếu động, mải chơi, chưa tập trung trong việc học tập. Một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình. Các em còn ngại khó, lười suy nghĩ, cứ đến tiết tập làm văn là sợ. Vì vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của môn Tập làm văn.

doc 18 trang Thu Nga 10/06/2025 130
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài tập làm văn cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài tập làm văn cho học sinh Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài tập làm văn cho học sinh Lớp 4
y nghĩ, lựa chọn cách diễn đạt tốt nhất.
 Một bài văn hay là phải có cách sắp xếp chặt chẽ: Mở bài, thân bài, kết bài. Phần mở bài như một lời thân ái mời chào của chúng ta đối với người khách đến thăm “vườn văn” của mình. Lời mời chào ấy phải hấp dẫn, gợi mở, gây cảm xúc ban đầu nhẹ nhàng, nêu được ý muốn diễn đạt ở toàn bài.
a. Mở bài: Có hai cách mở bài: trực tiếp hoặc gián tiếp
 Các em có thể vào bài trực tiếp hay gián tiếp, có thể mở bài bằng một câu hoặc một đoạn văn nhưng bám sát vào nội dung yêu cầu đã xây dựng. Dựa vào cách mở bài của mỗi em mà giáo viên góp ý, không gò bó, áp đặt.
Ví dụ: Khi tả chiếc đồng hồ
+ Có em vào đề trực tiếp: Trong gia đình nhà em có rất nhiều đồ vật nhưng em thích nhất là chiếc đồng hồ báo thức. ( Mở bài chỉ một câu nhưng đủ ý)
+ Có em mở bài hơi dài nhưng sinh dộng, gây ấn tượng ngay từ phút đầu:
“ RengrengCô chủ ơi! Dậy tập thể dục thôi”. Ôi chao! Tiếng gọi của cái đồng hồ báo thức đây mà. Sáng nào nó cũng đánh thức tôi vào lúc sáu giờ. Nó báo hiệu một ngày mới của tôi.
Ví dụ: Tả một con vật mà em thích
+ Có em vào đề trực tiếp: Trong gia đình nhà em có rất nhiều loài vật nhưng em thích nhất là con mèo tam thể.
+ Có em mở bài gián tiếp: Cả gia đình nhà em đều quý con vật. Nhà em nuôi chó, mèo, chim, cá cảnh và cả 2 con sáo hót rất hay. Nhưng người bạn thân thiết hay đón em từ cổng mỗi khi em đi đâu về là chú cún con. 
 Ví dụ: Tả cây cối
+ Có em vào đề trực tiếp: Nhà em trồng rất nhiều loại cây ăn trái nhưng em thích nhất là cây sầu riêng.
+ Có em mở bài gián tiếp: Chiều chiều em cùng bố mẹ đi dạo mát ngoài biển. Ở đây, có bao nhiêu cảnh mà em yêu, nhưng em chỉ thích nhất là được ngồi dưới bóng những cây dừa san sát để hưởng những làn gió biển mát rượi.
 Từ đó tôi rút ra kết luận để các em hiểu rằng: Vào bài trực tiếp hay gián tiếp cũng phải bám sát yêu cầu của đề mới viết được bài văn với nội dung tốt, mang tính nghệ thuật cao. Với các em học sinh khá giỏi nên động viên các em mở bài theo cách gián tiếp.
b. Thân bài:
 Dựa vào cấu trúc của dàn bài để viết phần thân bài cho thật đầy đủ các chi tiết. 
- Về cách dùng từ, phải dùng cho đúng, cho sát và lựa chọn từ ngữ nào hay nhất để làm cho câu văn có hồn.
Ví dụ: Khi tả bông hoa, có em đã tả:
+ Nụ hoa “chúm chím” nở như hớp từng giọt sương.
+ Hoa quì nở “vàng rực” trong gió “xôn xao”.
- Về viết câu cần linh hoạt, không nên viết theo kiểu công thức đơn điệu, khi viết nên thay đổi chủ thể của câu:
 Ví dụ: Hai bên đường vàng rực hoa quì.
Có thể đổi lại: Hoa quì khoe màu vàng rực rỡ hai bên đường.
Hay: Gà mẹ xòe cánh che chở đàn con.
Có thể đổi lại: Đàn gà con vội vàng rúc vào đôi cánh xòe ra che chở của gà mẹ
- Muốn viết được câu hay, cần phải sử dụng biện pháp nhân hóa, so sánh nữa.
Ví dụ về so sánh: 
+ Những giọt sương đọng lại ở cánh hoa long lanh như những hạt ngọc.
+ Chùm lông đuôi vừa dài vừa cong óng ả rất hợp với đôi cánh như hai con trai khổng lồ úp hờ hững bên sườn.
Ví dụ về nhân hóa:
+ Lá trong vườn vẫy chào người bạn nhỏ.
+ Dáng đi của trống cồ chậm rãi và oai vệ, ra vẻ một thủ lĩnh lắm.
 Như vậy sau khi dùng từ chính xác để đặt câu đúng ngữ pháp, linh hoạt. Học sinh liên kết các câu với nhau thành đoạn, sau đó liên kết các đoạn thành phần thân bài. Lưu ý, mỗi đoạn tả một phần cụ thể của đồ vật, con vật và cây cối.
Ngoài ra cần chú ý lồng cảm xúc của người viết khi miêu tả các sự vật trên. 
c. Kết bài: Có hai cách kết bài: Kết bài mở rộng và không mở rộng
 Có nhiều cách kết bài khác nhau nhưng đều xuất phát từ nội dung chính. Nó khép lại trước mắt người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà các em miêu tả trong bài văn của mình. Phần kêt bài như một cuộc tiễn đưa người khách vừa đến thăm “vườn văn” của mình một cách tình cảm, chân tình, đầy quyến luyến. Vì thế khi viết phần kết bài phải thật cô đọng, tránh cách kết bài cộc lốc, công thức. 
 Thực tế cho thấy các em chỉ liệt kê cảm xúc ( Kết bài không mở rộng) “Em rất thích con cún ấy”. Tôi đã gợi mở để các em nêu ( Kết bài mở rộng): “Cún đã sống với gia đình em rất lâu rồi. Nó rất ngoan, em hi vọng nó lớn lên càng biết vâng lời chủ và trung thành hơn nữa. Chẳng thế mà ai cũng nói chó là con vật rất trung thành và tinh nghĩa” 
 Hay với bài văn miêu tả hoa đào, có em kết bài: Em rất thích hoa đào, cứ Tết đến là nhà em lại mua một cành đào. Tôi gợi ý để em viết lại kết bài có hồn hơn: Như đã trở thành truyền thống, hoa đào là biểu tượng mùa xuân của miền Bắc và của cả nước ta. Nhìn hoa đào, ta biết mùa xuân đã đến. Những đứa con xa nhà lại chuẩn bị trở về với gia đình thân yêu
 Sau khi đã qua nhưng bước trên, trong tưởng tượng của các em đã phác họa được chân dung của sự vật hiện tượng miêu tả. Một trong những chứng tỏ điều này là các em đã nhớ được nhiều chi tiết, hình ảnh, biết sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, thổi hồn vào sự vật, hiện tượng một cách sống động gần gũi để các em thể hiện bản thân mình một cách thoải mái, không gò bó và đầy tính sáng tạo. 
 Sau mỗi tiết luyện tập, tôi cho học sinh nói về bài làm của mình cho cả lớp nghe. Ý kiến nào hay thi cho cả lớp phát huy, ý kiến nào chưa đạt cho học sinh góp ý, giáo viên nhận xét bổ sung. Từ đó giúp các em rút kinh nghiệm dế dàng làm bài văn miêu tả.
6- Chuẩn bị kỹ càng phần củng cố bài trong các tiết Tập làm văn:
 	Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong cả tiết học nhưng lại là lúc giáo viên tóm tắt toàn bộ nội dung kiến thức của bài và mở ra hướng kiến thức mới cho tiết học sau, vì vậy cần chú ý ở phần củng cố bài hấp dẫn, thu hút được sự chú ý của các em.
 Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn nhận mọi sự vật ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các em. Vì thế ở phần củng cố bài, giáo viên không nên đưa ra những bài văn mẫu hoàn chỉnh làm các em bắt chước, sao chép, dễ tạo cho các em cách làm văn sáo rỗng, na ná như nhau mà nên đưa ra những đoạn văn miêu tả của những tác giả khác nhau. Cùng trong một tiết học, có thể đưa ra nhiều đoạn văn miêu tả toàn diện, phong phú hơn và từ đó các em sẽ biết chắt lọc, tìm tòi những chi tiết đặc sắc, học tập được các câu, các từ hay, cách diễn đạt hợp lý cho bài làm của mình.
Các đoạn văn đưa ra cũng không nên quá dài hay quá ngắn vì nếu dài quá học sinh sẽ khó tiếp thu, ngắn quá sẽ không đảm bảo nội dung. Đặc biệt đoạn văn phải được diễn đạt mạch lạc đúng cấu trúc ngữ pháp, lời văn giản dị, câu văn giàu hình ảnh và phải mang tính mẫu mực cả về nội dung và hình thức.
 Khi đưa ra các đoạn văn mẫu cần phải phân tích, đánh giá để học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh nhận rõ nội dung miêu tả, sự khác biệt trong miêu tả và nét đặc sắc trong hành văn.
 Ví dụ: Đọc cho học sinh nghe đoạn văn “Quả cà chua" của tác giả Ngô Văn Phú 
"Cà chua ra quả, sum sê, chi chít, quả lớn quả bé vui mắt như đàn gà mẹ đông con. Quả một, quả chùm, quả sinh đôi, quả chùm ba, chùm bốn. Quả ở thân, quả leo nghịch mgợm lên ngọn và làm xệ cả những nhánh to nhất"
 Phân tích: Đoạn văn ngắn gọn nhưng đã miêu tả khá sinh động quả cà chua
Tác giả tả quả cà chua, chùm cà chua. Các chữ “sum sê”, “chi chít”và các hình ảnh “quả sinh đôi, quả chùm ba, chùm bốn”đã dặc tả cây cà chua, luống cà chuatưoi tốt, sây quả, quả trĩu cành. Quả cà chua được nhân hoá “leo nghịch mgợm lên ngọn”. tác giả ví chùm quả cà chua có quả lớn, quả bé “vui mắt như đàn gà mẹ đông con” . Một cách miêu tả hóm hỉnh, ý vị. Nó làm nên vẻ đẹp hấp dẫn riêng của đoạn văn miêu tả này.
 Việc đưa ra đoạn văn mẫu cùng với lời phân tích rõ ràng như vậy sẽ giúp học sinh hình dung ra đối tượng miêu tả một cách cụ thể, sinh động hơn, giúp học sinh vận dụng cách dùng từ đặt câu vào bài viết của mình.
7- Thực hiện hiệu quả việc chấm, trả bài:
 	 Mỗi loại bài thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn. Quá trình thực hành ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc thì mới có tác dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh. Tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm tra, đánh giá" nhằm mục đích giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung của giáo viên về kết quả bài viết của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình. Giúp học sinh biết sửa lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu, diễn đạt , bố cục bài của mình và của các bạn. Ngoài ra, học sinh có thể học hỏi những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài không thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén thời lượng.
- Khi chấm bài, tôi luôn tâm niệm rằng phải làm việc một cách nghiêm túc, kỹ càng, chính xác bởi vì bài văn là kết quả lao động sáng tạo của các em. Người giáo viên cần phải chắt lọc thành công của học sinh dù là nhỏ nhất. Không được qua loa, đại khái hoặc giận dữ, bực bội, có những lời phê phán để lại trên bài làm ảnh hưởng đến hứng thú, niềm tin của học sinh.
Tuy nhiên, tôi không xem suy nghĩ cảm thụ của mình là khuôn mẫu, chuẩn mực để áp đặt việc đánh giá học sinh mà tôn trọng, khuyến khích cái riêng, cái mới, cái độc đáo trong mỗi bài viết của các em.
Đối với những học sinh yếu, kém, tôi chỉ ra sai sót trầm trọng nhất, không bao giờ gạch nát cả bài, tránh gây cho em đó tâm lý thất vọng, chán nản. Tìm và phát hiện cái hay, sự tiến bộ trong mỗi bài viết của các em một cách kịp thời. Tôi không bao giờ tiết kiệm lời khen khi đánh giá bài làm của các em, trăn trở với mỗi lời phê vào bài. Phát hiện được một câu văn hay, một ý nghĩ độc đáo, sáng tạo, tôi đều đưa ra lời nhận xét (viết vào phần bài chữa được trình bày ở vở Tập làm văn), VD: ““Hiểu đề, bài viết có cảm xúc tốt”, “Câu văn có hình ảnh”, “Bài viết thật độc đáo”
 Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách bài soạn đã hướng dẫn, tôi thường thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ nhàm chán. Sau phần nhận xét chung, tôi chữa lỗi cho học sinh theo từng loại lỗi thống kê khi chấm bài : lỗi Chính tả, từ, câu, các lỗi khác .Và nêu các câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước. Sau đó, tôi trả bài và có thể tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu hoặc giúp nhau sửa lỗi  trong bài làm. Từ đó học sinh sẽ nhận thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy cũng sẽ giúp học sinh tránh được những lỗi không đáng có trong thực hành viết văn và trong cả giao tiếp hàng ngày.
4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
 Sau vài năm tổ chức trò chơi cho HS ở cuối tiết học môn TLV, tôi thấy kết quả như sau :
Hầu hết HS của lớp tôi phụ trách đều làm được bài văn đầy đủ ý.
Bộ phần lớn trong lớp đã biết sử dụng các từ ngữ gợi tả.
Ít có HS viết câu sai về ngữ pháp.
HS tự giác và tự tin khi tham gia vào các hoạt động của lớp.
Tạo được không khí thoải mái, hứng thú học tập trong HS.
Tạo được nề nếp thi đua trong học tập một cách sôi nổi và hào hứng.
 	 Qua thời gian áp dụng các giải pháp trên trong giảng dạy môn Tập làm văn tôi thấy các em đã có hứng thú và yêu thích học tập làm văn, nhất là các bài văn về miêu tả. Nhiều em đã biết làm bài văn có hồn, giàu cảm xúc và sáng tạo. Như vậy ngoài nhiệm vụ chính là biết làm một bài văn, học sinh được chủ động, tự do thể hiện cái “tôi”của mình một cách rõ ràng, bộc bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn.
 Để kiểm tra lại hiệu quả của các giải pháp mà mình đã áp dụng, tôi đã tiến hành khảo sát bằng bài kiểm tra đối với học sinh mình chủ nhiệm và kết quả thu được như sau: 
..
Qua kết quả trên cho thấy việc dạy cho học sinh nắm được các bước làm một bài văn miêu tả đã thực sự góp phần nâng cao chất lượng môn Tập làm văn. Bài làm của nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã viết văn miêu tả giàu hình ảnh, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như: nhân hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ bài làm sinh động, cảm xúc chân thật. Bởi vậy, tôi mạnh dạn đưa ra những kinh nghiệm, biện pháp qua Sáng kiến kinh nghiệm của mình để giáo viên có thể tham khảo, nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong môn Tập làm văn lớp 4 hiện nay.
PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ :
1. Kết luận: 
 Để nâng cao hiệu quả dạy học môn Tập làm văn nói chung và mảng kiến thức về văn miêu tả nói riêng, giáo viên cần làm tốt một số vấn đề sau:
 - Muốn truyền đạt cho học sinh nằm được cách làm các dạng văn miêu tả, người giáo viên phải nghiên cứu, đọc nhiều tài liệu, sách tham khảo để tìm ra giải pháp tối ưu nhất. Sau đó sắp xếp thành một qui trình có hệ thống các bước làm bài văn để học sinh lĩnh hội một cách dễ dàng, nhẹ nhàng mà hiệu quả.
 - Để học sinh hứng thú viết văn người giáo viên không chỉ có vai trò dẫn dắt các em nắm được bố cục, yêu cầu của từng dạng bài mà còn phải thường xuyên gần gũi các em, tiếp cận với bài viết của học sinh để kịp thời uốn nắn, bổ sung giúp các em tự tin trong quá trình làm bài. 
 - Trong quá trình dạy học, nếu giáo viên phát hiện được những sai lầm, những khó khăn của học sinh, tìm hiểu nguyên nhân của những sai lầm và khó khăn đó, tìm ra những biện pháp khắc phục kịp thời thì hiệu quả các tiết học chắc chắn sẽ được nâng cao. 
- Người GV phải hiểu được tầm quan trọng của môn Tập làm văn.
- Phải chuẩn bị chu đáo khi đến lớp.
- Phải biết tổ chức các hoạt động của tiết học nhẹ nhàng, tạo không khí thoải mái cho HS.
- Coi trọng các hoạt động của HS.
- Tùy nội dung của mỗi bài để chuẩn bị nội dung cho phù hợp.
Tóm lại, tổ chức trò chơi sau tiết học Tập làm văn nhằm cung cấp cho các em một số ý, từ và khắc sâu những nội dung cần phải có trong bài để bài viết có đầy đủ ý vận dụng được một số từ có hình ảnh gợi cảm, gợi tả đồng thời tạo cho lớp học không khí thoải mái, hứng thú làm cho HS yêu thích môn học để chất lượng học tập ngày càng cao hơn. 
2. Kiến nghị: 
Để nâng cao chất lượng học sinh, giúp các em nắm được kiến thức, vận dụng vào thực hành, tôi mạnh dạn đưa ra 1 số đề xuất sau:
1/ Về phía nhà trường :
 Hiện nay việc dạy học sinh làm tốt bài văn miêu tả là việc mà giáo viên còn lúng túng, nhất là về phương pháp giảng dạy. Vì vậy nhà trường nên thường xuyên tổ chức các chuyên đề về dạy môn Tập làm văn lớp 4 để giáo viên được giao lưu, học hỏi những kinh nghiêm quí báu của đồng nghiệp giúp cho việc dạy môn Tập làm văn được tốt hơn. Trong các kỳ hội giảng, hội thi nên khuyến khích giáo viên dạy Tập làm văn để trao đổi tìm ra phương pháp hay.
 2/ Đối với giáo viên :
- Không ngừng nâng cao trình độ bản thân bằng cách tự học qua đồng nghiệp hay tham khảo thêm tài liệu hay trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Khi lên kế hoạch bài học cần chuẩn bị kỹ nội dung, đồ dùng và các phương pháp dạy học.
- Mạnh dạn đưa ra các cách làm nhằm củng cố khắc sâu kiến thức cho học sinh.
- Quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh.
 Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc dạy học sinh lớp 4 viết bài văn đạt kết quả tốt. Trong quá trình nghiên cứu, trình bày không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong Hội dồng khoa học và các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến. 
	Tôi xin chân thành cảm ơn!

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_b.doc