Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả ở Lớp 4

“Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người”, (LêNin),”Ngôn ngữ là hiện tượng của tư duy”,(Các-Mác).Thật vậy, con người muốn giao tiếp được trong xã hội, muốn suy nghĩ bất cứ một vấn đề nào đều phải dùng một thứ phương tiện đặc biệt quan trọng không thể thiếu được đó chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện biểu hiện tình cảm, tiếng mẹ đẻ chính là ngôn ngữ gần gũi mang nhiều sắc thái tình cảm mà khi vừa chào đời ta đã tiếp xúc.

Môn Tiếng Việt ở Tiểu học giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nó góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ theo đặc trưng bộ môn. Việc dạy tiếng Việt trong nhà trường nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Thông qua việc học tiếng Việt rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo dục cho các em những tư tưởng trong sáng, lành mạnh góp phần hình thành nhân cách.

Trong chương trình Tiếng Việt cấp Tiểu học có 165 tuần gồm các phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn .. . . Mỗi phân môn đều có nhiệm vụ riêng song mục đích cuối cùng là cung cấp cho các em những kiến thức phổ thông về ngôn ngữ. Trên cơ sở đó rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong phân môn Chính tả phần rèn kỹ năng viết đúng góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cũng như xây dựng chuẩn ngôn ngữ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính vì những lý do trên nên trong quá trình dạy Chính tả ở lớp Bốn tôi rất quan tâm đến vấn đề viết đúng cho học sinh nhằm giúp học sinh học tốt phân môn này.

docx 12 trang Thu Nga 22/07/2025 130
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả ở Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả ở Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả ở Lớp 4
n tôi rất quan tâm đến vấn đề viết đúng cho học sinh nhằm giúp học sinh học tốt phân môn này.
	2.3.2 Cơ sở thực tiễn:
	a. Thuận lợi
	- Hội đồng sư phạm nhà trường có nhiều giáo viên có kinh nghiệm, nhiều năm giảng dạy lại luôn có quyết tâm nhất quán trong đổi mới phương pháp nên bản thân học hỏi và rút kinh nghiệm được nhiều vấn đề hữu ích.
	- Học sinh phần lớn chăm ngoan và chịu khó.
	b. Khó khăn
	- Năng lực và thói quen nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế nên kết quả thu được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
	- Các em chưa nắm vững các quy tắc, mẹo luật chính tả, có em phát âm sai dẫn đến bài viết sai nhiều lỗi chính tả ngày càng nhiều.
	- Trình độ học sinh không đều, đọc bài chậm, còn đánh vần.
	- Nhiều em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, các em ít có điều kiện học tập, rèn luyện và đọc thêm sách báo nên vốn từ ngữ của các em ít được mở rộng.
	- Phụ huynh chưa thật sự quan tâm, học sinh chưa có động cơ, thái độ học tập đúng đắn trong việc luyện viết chính tả.
	c. Thực trạng
	*Dạy chính tả của giáo viên
	- Hầu hết các tiết dạy chính tả chưa được giáo viên đầu tư cao mà chủ yếu dựa vào sách giáo khoa và sách giáo viên là chính.
	- Một số giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm phương ngữ vùng miền mình đang ở, giáo viên ít củng cố và khắc sâu cho học sinh nắm các quy tắc, mẹo luật chính tả qua bài viết hoặc qua các bài tập. 
	- Bên cạnh đó còn tồn tại một thực trạng phổ biến hiện nay là: Nhiều giáo viên chưa nghiên cứu kĩ về chính tả cho bản thân mình và cho học sinh trong giờ dạy các môn học khác. Hầu hết giáo viên chỉ phát âm đúng trong giờ tập đọc, chính tả còn các môn khác phát âm theo kiểu bình thường của người địa phương.
	Ví dụ:
	Phát âm“con tầm”mà thực chất là “con tằm”.
	Phát âm “mầu sắc’’mà thực chất là “ màu sắc ’’.
	* Học chính tả của học sinh 
	- Mấy năm gần đây ở trường Tiểu học Phạm Ngũ Lão, phong trào chữ viết đã được chú trọng và ngày càng nâng cao. Tuy nhiên, qua khảo sát bài viết của học sinh khối lớp 4 còn hạn chế. Nhiều em chưa nắm vững các quy tắc, mẹo luật chính tả, có em phát âm sai dẫn đến bài viết sai nhiều lỗi chính tả ngày càng nhiều.
	- Một số lỗi của học sinh mắc phải như sau:
	+ Về lỗi âm đầu:
	Học sinh thường viết sai các cặp phụ âm :  l/n, tr/ch,  s/x,  r/d/gi, ng/ngh, g/gh. Trong đó lỗi chính tả tập trung ở r/d/gi, ch/tr , l/n, s/x. 
	+ Về lỗi phần vần:
	Học sinh vẫn còn lẫn lộn các cặp vần :  ui/ uơi , in/inh, ăn/anh, ac/at, ưu/ươu, iêu/iu hoặc viết sai ở các vần khó như : uya, uyn, uyt, ươt .
	+ Về lỗi dấu thanh:
	Chủ yếu là sai thanh hỏi / thanh ngã, đặc biệt do các từ láy hoặc từ Hán – Việt, các em thường không phân biệt thanh hỏi- thanh ngã.
	3. Tóm tắt nội dung sáng kiến:
	3.1. Đối tượng và phạm vi áp dụng:
	3.1.1. Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 4 trường Tiểu học Phạm Ngũ Lão. 
	3.1.2. Phạm vi áp dụng: Môn Tiếng Việt
	3.2. Tóm tắt nội dung của sáng kiến:
	Biện pháp 1: Sửa lỗi chính tả trong quá trình nhận xét và sửa bài
	Để nhận xét một bài kiểm tra của các môn học khác, giáo viên rất nhàn bởi nội dung ngắn, hoặc nội dung chỉ thể hiện trên những con số. Nhưng với môn Tiếng Việt thì khác, nhiều khi đọc xong bài văn của các em khiến người thầy hoa mắt. Nhưng không phải vì vậy mà người thầy nhận xét qua loa.
	Với quan niệm: Văn là người. Nếu không rèn cho các em thói cẩn thận, sự chuẩn mực trong ngôn từ thì ảnh hưởng rất nhiều đến tương lai cho các em nên trong quá trình chấm bài, bao giờ giáo viên cũng chú trọng sửa lỗi chính tả cho học sinh một cách chu đáo. Đối với lời phê bao giờ cũng nhẹ nhàng và có lời khuyên nhủ để động viên, an ủi và hy vọng các em tiến bộ.
	* Cách sửa lỗi trên bài kiểm tra:
	- Đối với những em mắc ít lỗi chính tả bao giờ tôi cũng gạch dưới chữ sai bằng mực đỏ và sửa lại đúng chữ đó ở bên lề tương ứng.
	- Còn đối với những em có quá nhiều lỗi chính tả không thể viết lại bên lề trang giấy thì tôi đã sửa trực tiếp trên chữ sai hoặc gạch dưới chữ các em trình bày sai.
	- Trong một tiết học tôi thường dành một khoảng thời gian nhất định để lướt qua nhận xét từng bài của các em. Bao giờ cũng dừng lại lâu hơn đối với những bài sai nhiều lỗi chính tả. 
	- Đặc biệt, đối với những học sinh mà sai nhiều lỗi thì tôi cũng gọi các em lên bảng viết lại những chữ mà học sinh đã trình bày sai trong bài viết của mình. Thầy (cô) sẽ đọc những chữ sai cho học sinh viết lên bảng. Sau đó, thường cho các em phía dưới nhận xét những chữ các em lên bảng mới viết, rồi cho các em lên chữa lại những từ viết sai, khi thấy các em đã chữa đúng tôi yêu cầu học sinh viết sai chép lại những từ mình đã sai vào vở để lần sau không còn phạm vào các lỗi mà thầy và các bạn đã từng sửa. 
	* Cách sửa trong vở bài tập:
	- Sau khi thu vở của các em bao giờ cũng có những nhận xét, những lời phê nêu hạn chế của học sinh để các em thấy được những điều mình chưa làm được mà cố gắng điều chỉnh lại chữ nghĩa của mình một cách đúng nhất. Một điều dễ phát hiện là càng vở bài tập, vở soạn ở nhà các em lại càng viết ẩu, đó là: viết tắt, viết số và trình bày rất cẩu thả. 
	- Chính vì thế trong khi trả vở cho học sinh bao giờ cũng nhấn mạnh cho các em việc rèn luyện và trau dồi vốn từ ở nhà là một điều thuận lợi để các em có thể tham khảo, suy nghĩ những từ đúng, trình bày sạch đẹp hơn để tạo thành thói quen cho riêng mình.
	Biện pháp 2: Giúp học sinh nắm vững các quy tắc chính tả
	Ở những lớp dưới, các em đã được cung cấp một số qui tắc chính tả. Lên lớp 4,
các em vẫn thường xuyên được ôn lại. Nhưng không phải em nào cũng nhớ và vận
dụng để viết đúng chính tả. Việc ghi nhớ và vận đúng các qui tắc chính tả không
phải là điều dễ dàng. Nếu cứ nói, cứ giảng mãi thì rồi các em cũng vẫn cứ quên. Để
giúp các em nắm vững các qui tắc chính tả đã học một cách khái quát có hệ thống,
tôi đã chọn lọc, tổng hợp các qui tắc và một số “mẹo” chính tả ở mức độ đơn giản
để các em dễ nhớ, dễ thuộc, thậm chí khi nào quên các em có thể giở ra xem để viết
đúng chính tả. Qui tắc và mẹo luật chính tả này chỉ nằm trong 2 mặt của một tờ
giấy A4 nên học sinh rất dễ học, dễ nhớ và nhanh thuộc.
 	* Một số quy tắc chính tả:
Âm đầu "Tr" và "Ch" 
Đối với hai âm đầu này, người thầy hướng dẫn các em những mẹo nhỏ thì sau này các em ít sai sót. 
	- Trong từ Hán Việt mang dấu nặng và dấu huyền đều chỉ đi với Tr mà không đi với Ch.
	+ Tr đi với dấu nặng: Trạm xá, hỗ trợ, triệu phú, trận mạc, trịnh trọng, trị giá, trục lợi, trụ sở, vũ trụ...
	+ Tr đi với dấu huyền: Phong trào, lập trường, trầm tích, trừng trị, truyền thống, từ trường, trần thế , trù bị, trùng hợp....
	- Khi láy âm: Ch láy âm với các phụ âm khác ở vị trí đứng trước hoặc đứng sau, trái lại Tr không láy âm đầu với các phụ âm khác, trừ bốn trường hợp ngoại lệ đều là láy với L: Trọc lóc, trụi lũi, trót lọt, trẹt lét.
	+ Ch đứng ở vị trí thứ nhất: Chờn vờn, chon von, chơi vơi, chót vót, chênh vênh, chạng vạng, chơi bời, chèo bẻo, cheo leo, chìm lỉm, chi li, chói lọi, chào mào, chộn rộn, chình rình
	+ Ch đứng ở vị trí thứ hai: Loắt choắt, lau chau, lanh chanh, lã chã, loạng choạng, lởm chởm, loai choai
	- Khi dùng trong trường từ vựng:
	+ Khi dùng những từ chỉ quan hệ trong gia đình thì viết với Ch chứ không viết với Tr: Cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt, chút , chít
	+ Khi dùng những từ chỉ đồ dùng trong gia đình được viết với Ch chứ không viết với Tr: Cái chậu, cái chum, cái chai, cái chiếu, cái chăn, cái chõng, cái chày, cái chổi, cái chuồng gà, cái chĩnh
Âm S và X:
Khi kết hợp âm đệm: S không đi với các vần oa, oă, oe, uê, chỉ có X là đi với các vần này:
	Ví dụ: Xoa tay, xoay xở, cây xoan, xoắn lại, tóc xoăn, xòa tay, xoen xoét, xuề xòa, xuyên qua, quả xoài, tóc xõa (nhưng có các trường hợp ngoại lệ như soát trong rà soát, kiểm soát... soạn trong soạn bài, soạn giáo án, soạn giả... và những trường hợp điệp âm đầu trong từ láy: suýt soát, sột soạt)
	- Khi  láy âm: Chỉ có X mới láy âm với các âm đầu khác, còn S không có khả năng này.
	Ví dụ: Bờm xơm, bờm xờm, lao xao, lòa xòa, liêu xiêu, loăn xoăn, liểng xiểng, lộn xộn, lì xì
	* Hướng dẫn học sinh viết đúng dấu hỏi, dấu ngã trong từ Hán Việt
	Trong từ vựng Tiếng Việt của chúng ta có tới 60% là từ Hán Việt, chính vì thế nếu học sinh nắm được luật viết dấu hỏi, dấu ngã trong từ Hán Việt sẽ tránh được một lượng lớn lỗi chính tả mà các em thường gặp trong khi sử dụng từ ngữ.
	- Những âm đầu trong từ Hán Việt viết bằng dấu ngã: 
Đối với từ Hán Việt có âm đầu là các phụ âm: M, N, V, NH, L, D, NG thì đều dùng dấu ngã:
	Ví dụ:
	M: Song mã, mã hóa, mãi lộ, mãn khóa...
	N: Truy nã, long não, phụ nữ, trí não, nỗ lực...
	V: Vũ trang, vũ đài, hùng vĩ, vĩ nhân, vĩ tuyến, cứu vãn, vãn hồi...
	NH: Nhẫn nại, nhũng nhiễu, thạch nhũ, nhiễm độc
	L: Lễ nghĩa, lãng mạn, lãnh đạo, lãnh tụ, nguyệt lão...
	D: Diễn xướng, dã man, dã tâm, dĩ vãng , diễn thuyết, diễm phúc...
	NG: Ngôn ngữ, nghĩa vụ, nhân ngãi, biền ngẫu, bản ngã...
	- Những âm đầu trong từ Hán Việt viết bằng dấu hỏi:
Những âm đầu không phải là 7 âm như phần trên thì được dùng bằng dấu hỏi.
	Ví dụ: Ảnh hưởng, văn bản, bảo hiểm, cảm giác, hải cảng, đả đảo, đẳng cấp, đảm nhiệm, giải phóng, khai giảng, hải đăng, hải quân, khả ái, chung khảo, kỉ luật, thế kỉ...
	Biện pháp 3: Đọc mẫu - Hướng dẫn cách viết:
	- Muốn học sinh viết đúng chính tả thì giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho bản thân mình, những tiếng có thanh ngã thì ta phải đọc nặng giọng và hơi ngân dài hơn so với những tiếng có thanh hỏi. Những tiếng có âm cờ thì ta phải đọc nặng giọng hơn so với những tiếng có chứa âm tờ. Hoặc những tiếng có chứa âm cuối là âm ngờ thì khi đọc ta phải ngân dài hơn so với những tiếng có chứa âm cuối là âm nờ 
	- Việc đọc đúng, rõ ràng, mạch lạc, đọc hay, đọc chuẩn của giáo viên là quan trọng nhất. Không những đọc đúng mà còn phải viết đúng, đẹp, đúng quy cách chữ hiện hành do Bộ Giáo dục quy định. Trình bày khoa học để các em có thể dựa vào đó để bắt chước, rèn luyện.
	- Như chúng ta đã biết muốn viết đúng thì phải đọc đúng. Vì vậy khi hướng dẫn học sinh viết chính tả phải hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ nhất là khi phân tích từ khó, tiếng khó. Giáo viên vừa cho học sinh viết vừa đánh vần kết hợp với đọc để khi các em viết đỡ bị sai. Tùy từng bài cụ thể mà giáo viên đặt các câu hỏi để hướng dẫn học sinh cách viết.
	Ví dụ:
	+ Chữ đầu câu ta phải viết như thế nào? (Viết hoa chữ cái đầu tiếng)
	+ Danh từ riêng phải viết như thế nào? (Viết hoa)
	+ Sau dấu câu phải viết như thế nào? (Viết hoa chữ cái đầu câu).
	+ Đối với bài văn ta viết và trình bày như thế nào? (Viết thụt vào một ô li chữ đầu bài và sau khi hết một đoạn so với lề vở).
	+ Đối với bài thơ ta viết và trình bày như thế nào?
Bài thơ có 4,5 tiếng thì các chữ đầu dòng thơ phải viết hoa chữ cái đầu của tiếng
và viết bằng nhau. (các chữ đầu dòng thơ phải viết thẳng hàng).
Bài thơ lục bát phải trình bày theo thể thơ: Dòng 6 tiếng viết thụt lùi vào 2 ô li so với lề vở. Dòng thơ 8 tiếng viết thụt lùi vào 1 ô li so với lề vở và cứ như thế cho đến hết bài thơ. Các chữ đầu dòng thơ đều phải viết hoa. 
	- Thông qua phân môn Tập đọc và các môn học khác..Hoặc giờ ra chơi hằng ngày tôi gọi một vài em hay mắc lỗi để tìm hiểu nguyên nhân mà các em sai về từ, chữ, âm và vần thường mắc phải. Cùng trò chuyện giúp các em đọc đúng luyện thanh từ đó sẽ nhớ lâu hơn. Rồi dần dần  đọc đúng, viết đúng hơn. 
Ví dụ: Các em đọc sai l/n
“Lính leo lên lầu
 Lính lấy lưỡi lê
 Lính lấy lộn lưỡi liềm”
	Nếu học sinh đọc âm l thành âm n thì dẫn đến tình trạng viết sai chính tả rất nhiều. Do vậy giáo viên cần phải luyện đọc cho thật chuẩn, chính xác. Với cách luyện đọc đúng thường xuyên dần dần các em sẽ khắc sâu hơn và hình thành viết đúng chính tả như câu nói “Mưa dầm thấm đất”.
	Biện pháp 4: Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả
	Đối với học sinh đọc còn chậm và sai nhiều thì không thể viết đúng chính tả
vì đọc chưa thông nên khi viết chính tả các em thường mắc các lỗi do không nắm
vững âm vần. Vì vậy, đối với những học sinh này, trước hết tôi phải chú trọng khâu
luyện đọc cho các em.
	Hàng ngày trên lớp, tôi chú ý rèn đọc cho các em bằng cách:
	- Gọi các em đọc bài nhiều lần không chỉ ở phân môn tập đọc mà cả ở các
môn học khác, kiên trì sửa lỗi cho từng em.
	- Tổ chức cho các em đọc bài nhóm đôi trong 15 phút đầu giờ.
	- Phân công học sinh giỏi đọc bài cùng các em khi luyện đọc trong nhóm.
	- Giao bài cho các em luyện đọc và viết bài ở nhà; ngày sau, giáo viên kiểm tra và nhận xét.
	- Khuyến khích các em học thuộc lòng một đoạn văn hay một vài khổ thơ, rồi
nhớ - viết đoạn văn hay khổ thơ đã thuộc.
	Biện pháp 5: Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ:
	Việc nắm nghĩa từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ
sở giúp học sinh viết đúng chính tả.
	Học sinh lớp tôi viết sai chính tả, một phần lớn là do các em không nắm
được nghĩa của từ. Vì thế, khi dạy chính tả hoặc dạy các phân môn học khác của
môn Tiếng Việt, tôi luôn chú ý giúp các em:
	- Hiểu nghĩa của từ, phân biệt từ này với từ khác để các em ghi nhớ cách viết
của mỗi từ.
	Ví dụ: Nếu tôi đọc một từ có hình thức ngữ âm là “dành” thì học sinh sẽ
lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu tôi đặt nó
vào một ngữ cảnh hay gắn cho nó một nghĩa xác định như: Em để dành tiền mua
sách truyện Thiếu nhi./ Trong trận đấu bóng đá ngày mai, các em phải giành lấy
chiến thắng.
	- Khi đọc chính tả cho học sinh viết, tôi đọc từng cụm từ (diễn đạt một ý
nhỏ); tôi luôn nhắc nhở các em chú ý lắng nghe, hiểu nghĩa từ để viết đúng chính
tả.
	- Khi học sinh sửa lỗi trong bài chính tả, tôi yêu cầu các em ghi từ chứa tiếng
sai rồi sửa lại cho đúng; không nên chỉ ghi một tiếng sai rồi sửa lại, sửa như vậy
các em sẽ không ghi nhớ các từ đã viết sai.
	- Trong các tiết Tập đọc, tôi tập cho các em tìm cách ngắt giọng ở những câu
dài, ngắt nghỉ đúng các dấu câu, giải nghĩa các từ khó.
	3.3.Tóm tắt các điểm mới của sáng kiến:
	Những điểm mới của sáng kiến so với trước đây:
	- Đổi mới phương pháp dạy học, xây dựng các bài tập phù hợp với từng đối tượng học sinh.
	- Đưa ra một số phương pháp thiết thực mang lại hiệu quả trong quá trình dạy học.
	4. Phạm vi ảnh hưởng, hiệu quả áp dụng của sáng kiến:
	4.1. Việc áp dụng hoặc áp dụng thử: Sáng kiến đã đưa vào áp dụng thực tế giảng dạy tại lớp 4B trường Tiểu học Phạm Ngũ Lão từ năm học 2020-2021 đến nay.
	4.2. Hiệu quả áp dụng: 
	- Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng tại lớp và trong khối. Kết quả đạt được tăng lên rõ rệt theo từng năm.
	- Khi chữ viết tiến bộ thì các em sẽ cẩn thận hơn, đua nhau chăm học hơn và ham học nhiều hơn trước.
	- Kết quả thực hiện ở lớp 4B năm học 2020 – 2021 tôi thu được như sau:
Đầu năm học 2020 - 2021
Cuối năm học 2020 - 2021
HTT
%
HT
%
CHT
%
HTT
%
HT
%
CHT
%
4
11,1
30
83,3
2
5.6
10
27,8
28
72,2
0
0

	 Người viết
 Trương Duy Khánh Ly
Phụ lục đính kèm:
	1. Dựa vào thực tế của các học sinh khối 4.
2. Để học tốt phân môn chính tả ở Tiểu học.
3. Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở Tiểu học.
4. Sách giáo khoa – sách giáo viên lớp 4.
5. Mẹo luật chính tả.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_khac_phuc_loi_chinh_t.docx