Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn Lớp 3

Tiếng Việt lớp 3 được học trong 35 tuần, học kì I có 18 tuần, học kì II có 17 tuần, mỗi tuần học 8 tiết, riêng phân môn Tập làm văn mỗi tuần học sinh được học 1 tiết. Các tiết Tập làm văn đều được sắp xếp ở cuối mỗi tuần học, bởi vì đây là phân môn tích hợp của các phân môn khác trong môn Tiếng Việt.

Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng tổng hợp từ nhiều phân môn khác như: Học Vần, Tâp viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu… Để làm được một bài văn học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng: “ Nghe, nói, đọc, viết “. Phải vận dụng những kiến thức về tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tạo lập văn bản, trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Bài tập làm văn là nơi thể hiện rõ nhất năng lực, kĩ năng, kiến thức của học sinh. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Điều này đòi hỏi phân môn Tập làm văn phải có nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất là giúp cho học sinh sau quá trình luyện tập lâu dài có ý thức nắm được cách viết và cách nói sáng tạo các văn bản theo nhiều phong cách khác nhau. Thứ hai là phân môn này góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy, trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp; qua nội dung bài dạy, hình thành nhân cách cho học sinh. Còn nhiều nhiêm vụ khác nữa nhưng tôi chỉ nêu hai nhiệm vụ tôi coi là quan trọng nhất. Tóm lại: Dạy phân môn Tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực, sáng tạo, chủ động học tập, biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn bản.

doc 18 trang Thu Nga 26/05/2025 150
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn Lớp 3
Giọng quê hương
......................................
......................................
..............................................................
..............................................................
Quê hương 
.....................................
.....................................
...............................................................
..............................................................
Đất quý, đất yêu
.....................................
.....................................
.............................................................
.............................................................
Vẽ quê hương
.....................................
.....................................
...............................................................
..............................................................

b. Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất đồng ý.
 Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:
 Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.
 Là nơi mình sinh ra và lớn lên.
 Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.
 Là nơi mà khi xa mình thấy nhớ thương.
 c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:
 Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
2. Cách tiến hành
 Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý tưởng để nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)
- GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ sung hoàn thành bài tập. Giới thiệu nội dung chủ đề “Nói về quê hương”.
Hoạt động 2: HS tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà mình đang nghĩ tới.
- GV treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để kích thích học sinh hồi tưởng.
- HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bảng phụ ghi vào khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)
 Ví dụ: 
 Vườn cây công viên thành phố	yêu
 con sông Quê hương em bờ đê, bãi cỏ 
 nông thôn đường phố	 nhà cao tầng
 Hoạt động 3: HS đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, GV hướng dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.
- GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý HS trung bình và yếu để giúp các em điều 
chỉnh.
 Chẳng hạn với ví dụ trên, học sinh có thể đánh số thứ tự như sau:
 vườn cây (4) công viên (4) thành phố (1) yêu (5)
 con sông (2) Quê hương em bờ đê, bãi cỏ (3) 
 nông thôn (1) đường phố (3)	 nhà cao tầng (2)
Hoạt động 4: HS nhìn mạng của mình và nói 
Cho hai em nói mẫu trước lớp . 
 Ví dụ : Quê hương em thuộc một vùng nông thôn yên bình. Ở đó có cây đa cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà em là con sông quê hương uốn lượn quanh làng. Ven sông là bờ đê với bãi cỏ xanh mượt, những chú trâu béo tròn đang ung dung gặm cỏ. Em rất thích tắm mình dưới con sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình.
 Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em thường được bố mẹ dẫn đi chơi công viên, được ngồi trên cái ghế đá mát rượi. Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.
- Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.
Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc biệt lưu ý giúp học sinh yếu.
Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp
- GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp (không nhìn mạng ý nghĩa). Nếu là học sinh yếu, có thể cho học sinh nhìn mạng để nói.
- Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến khích HS tự tìm đặt và trả lời thêm câu hỏi mở rộng. Chẳng hạn: Quê em có gì đặc biệt? Em mơ ước gì về quê hương của mình? GV nhận xét chung.
Ví dụ 2: Dạy bài : Kể về gia đình (BT1-TV3 -tập1- tr 28) 
 Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹ năng nói : Kể được một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen.
1.Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm công việc gì? Tính tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình?
2.Cách tiến hành 
Hoạt động 1:
- Cho HS đọc yêu cầu bài tập, GV giúp HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể về gia đình mình cho bạn mới quen biết.
- Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình.
- Giáo viên treo bảng phụ lên bảng. HS đọc thầm và hồi tưởng.
- HS làm vào giấy nháp. GV gọi đồng thời hai em làm vào bảng phụ, ghi vào khung chủ đề cụm từ “gia đình mình” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề đó.
 Ví dụ: 
 Làm ruộng anh, chị học sinh 
 Ông, bà Gia đình mình bố, mẹ
 Yêu thương em hạnh phúc
 Hoạt động 2: Học sinh đánh số thứ tự của mình vừa tìm được theo thứ tự 1,2,3...
 Chẳng hạn có thể đánh số thứ tự như sau: 
 Làm ruộng anh, chị (3) học sinh (4) 
 Ông, bà (1) Gia đình mình bố, mẹ (2)
 Yêu thương (5) em (3) hạnh phúc (6)
 - GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp các em điều chỉnh.
 Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói
 - GV gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp.
 Ví dụ : Gia đình mình có 6 người : Ông bà, bố mẹ tớ, anh Hà và tớ. Ông bà mình đã lớn tuổi rồi. Bố mẹ tớ đều ở nhà làm ruộng. Anh Hà là học sinh lớp 7. Ông bà mình rất hiền, thường kể chuyện cho mình nghe. Mẹ mình luôn bận bịu với việc nhà, vì thế mình yêu mẹ lắm. Lúc nào rảnh việc học, mình lại giúp đỡ bố mẹ. Gia 
đình mình rất hạnh phúc.
- Cả lớp nhận xét, GV sửa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu có sai sót).
b.2.3. Sử dụng “Bản đồ tư duy”:
 Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp 3, tôi sử dụng bản đồ tư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa. Bản đồ tư duy là một phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy tập làm văn, người giáo viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của từng chủ đề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồ tư duy cần phải đảm bảo đúng kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ để qua đó học sinh tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn.
	Ví dụ khi dạy đề bài: Nói, viết về người lao động trí óc (BT1, 2 - TV3 - Tập 2 – Tr38), các bước đi như đã trình bày ở trên, giáo viên sử dụng bản đồ tư duy như sau thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa:
 Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu (các từ ngữ phục vụ cho đề bài) để hoàn thành bài nói về người lao động trí óc dễ dàng hơn. 
Ví dụ 1: Cô em là bác sĩ làm việc tại bệnh viện huyện. Hằng ngày, cô đều đến bệnh viện miệt mài với công việc của mình. Mỗi khi khám bệnh, cô ân cần hỏi han người bệnh về tình trạng bệnh tật. Ai cũng khen cô khám bệnh rất giỏi, kê đơn phát thuốc uống là khỏi ngay. Mọi người rất yêu quý cô. Em thật tự hào về cô của em.
Ví dụ 2: Em muốn kể về cô giáo đang dạy lớp 3 của em. Hàng ngày, cô lên lớp dạy chúng em học, bài nào chưa hiểu, cô tìm mọi cách để giảng giải, hướng dẫn chúng em đến hiểu thì thôi. Cô thu từng chồng vở tập làm văn của chúng em mang về, em đoán rằng cô chắc phải thức cả đêm để chấm bài, để sửa từng câu chữ cho chúng em. Rồi cô còn soạn bài cho buổi học ngày maiCô là một người giáo viên tận tụy, hết lòng vì học sinh thân yêu. Nhớ ơn cô, chúng em luôn chăm chỉ học tập để cô vui lòng.
 Hoặc khi dạy bài: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật (BT1, 2 -TV3 - tậpII - tr 48), giáo viên thực hiện các bước như sau: 
- Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể về buổi biếu diễn nghệ thuật (Hoặc buổi biểu diễn văn nghệ ở trường em).
- Học sinh tập trung động não nghĩ về buổi biểu diễn và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến buổi biểu diễn.
- Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh biết một số từ ngữ liên quan đến biểu diễn nghệ thuật. Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng.
- Yêu cầu học sinh từ một từ trong bản đồ, viết ít nhất một câu về chủ đề biểu diễn nghệ thuật.
- Học sinh ghi vào giấy nháp về buổi biểu diễn.
- Giáo viên gọi một vài em kể về buổi biểu diễn cho cả lớp nghe. 
- Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.
Chẳng hạn: Chủ nhật tuần trước em được bố mẹ cho đi xem xiếc. Mở mà là tiết mục đu dây của một cặp diễn viên nam nữ. Họ thật là dũng cảm khi đu trên sợi dây tít trên cao. Sau đó là tiết mục xiếc thú: nào khỉ đi xe đap, chó làm toán, voi đá bóng tiết mục nào cũng thật là hấp dẫn. Em thích nhất là tiết mục biến giấy thành hoa, thành chim bồ câu. Người diễn viên thật khéo léo trong khi biểu diễn. Em rất thán phục các diễn viên biểu diễn trong ngày hôm đó.
Hoặc: Cứ đến 20/11 hằng năm, trường em lại tổ chức đem văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Đúng 7 giờ thì khai mạc buổi biểu diễn. Sau đó là lần lượt tiết mục của các lớp. Bạn Hồng Nhung lớp 3D với tiết mục hát đơn ca “Bông hồng tặng cô” mượt mà, tình cảm. Tiết mục kể chuyện “Bác Hồ đến thăm trại nhi đồng” của em Thanh Thùy lớp 2C thật truyền cảm, xúc động. Em thích nhất là tiết mục tam ca “Tiếng hát bạn bè mình” của lớp em. Các bạn vừa hát, vừa biểu diễn rất chuyên nghiệp. Rồi còn các tiết mục múa của các em lớp một thật uyển chuyển, dễ thương. Thật là một buổi biểu diễn đầy ý nghĩa để dânh tặng các thầy cô.
*Lưu ý: Học sinh lớp Ba tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ ngữ phục vụ cho đề bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ được bản đồ tư duy hoàn chỉnh. Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, tôi chuẩn bị bản đồ tư duy hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa sẵn, sau khi hướng dẫn xong thì có thể xóa đi và yêu cầu học sinh áp dụng vào để tự làm bài. Đối với những học sinh khá giỏi, tôi hướng dẫn các em vẽ bản đồ tư duy trong một số bài học nhưng không yêu cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học sinh vẽ được bản đồ tư duy phục vụ cho bài học thì giáo viên cần định lượng thời gian phù hợp để các em hoàn thành, tránh tình trạng lạm dụng vẽ rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu ra. 
c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
Để thực hiện được các biện pháp trên, mỗi giáo viên phải là người nắm chắc kiến thức, hiểu rõ những điều mà đề bài yêu cầu; là người tổng hợp được kiến thức các môn học để giúp học sinh nhanh chóng hiểu và làm theo yêu cầu của mỗi đề bài.
Mỗi học sinh phải tham gia tích cực, giàu trí tưởng tượng, vận động tư duy theo yêu cầu của giáo viên, từ đó mới nhanh chóng tìm được các từ ngữ thuộc chủ đề và hoàn thành bài nói (viết) trong thời gian quy định.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Để thực hiện tốt các bài tập dựa vào mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy, trong các tiết dạy các phân môn khác của môn Tiếng Việt như Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, người giáo viên phải giúp học sinh nắm được các từ ngữ thuộc chủ điểm đang học, từ đó có vốn từ phục vụ cho việc hiểu mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy mà giáo viên đưa ra trong tiết Tâp làm văn cuối tuần.
Các biện pháp trên nên thực hiện đồng bộ, thường xuyên trong giờ dạy Tập làm văn, phối hợp với sử dụng SGV như là một đồ dùng dạy học. Ngoài ra, các biện pháp đưa ra phải phù hợp với khả năng của học sinh thì mới đạt hiệu quả cao. 
e. Kết quả khảo nghiệm
Khảo sát đầu năm về môn Tiếng Việt, hầu hết phần viết học sinh chưa đạt điểm cao, đặc biệt là phần tập làm văn. Cụ thể:
Năm học
TSHS
Điểm9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điếm 3-4
Điểm 2-1
2011-2012
34
3
10
16
6

2012-2013
32
4
12
12
4

2014-2015
28
3
12
12
1

Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, cuối năm học kết quả phần viết môn Tiếng Việt như sau:
Năm học
TSHS
Điểm9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điếm 3-4
Điểm 2-1
2011-2012
34
20
8
6


2012-2013
32
18
10
4


2014-2015 (HKI)
28
17
8
3


II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
a. Kết quả
Mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy giúp học sinh có căn cứ để hoàn thành câu, tiến tới viết đoạn, bài. 
Sau khi nhận lớp, tôi tiến hành khảo sát học sinh để nắm được thực trạng đầu năm. Sau đó, áp dụng các giải pháp đã nêu ở trên, chất lượng phân môn Tập làm văn được nâng lên rõ rệt. Những học sinh trước chỉ trả lời câu hỏi hoặc không biết viết gì đã có thể dựa mạng ý nghĩa để sắp xếp ý, để nói (viết) được đoạn văn hoàn chỉnh về chủ đề mà bài tập yêu cầu. Những học sinh khá, giỏi thì đã có thể tự lập được mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy, viết được những đoạn văn có hình ảnh, có sự sáng tạo, có cảm xúc mà tôi giới thiệu kèm theo bài viết này. Đó là phần thưởng cho sự nỗ lực cố gắng của mỗi học sinh cũng như của bản thân tôi trong quá trình truyền dạy tri thức cho các em.
b. Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Với sự học hỏi của bản thân, sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ tư duy vào giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 3 đã giảm hẳn áp lực học tập, học sinh thoải mái, tự tin hơn khi thực hiện bài tập dạng Kể hay nói (viết) theo chủ đề. Kinh nghiệm tuy không lớn nhưng đã nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt lớp 3 nói chung.
III. Phần kết luận, kiến nghị 
1. Kết luận
Để nâng cao hiệu quả các giờ học Tập làm văn lớp 3 đặc biệt là với dạng bài tập “Kể hay nói, viết về một chủ đề”, theo tôi người giáo viên phải có trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp thích hợp, tác động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của bản thân 
mình. Qua đó các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học tập đúng đắn. Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình môn Tiếng Việt lớp 3, đặc biệt là các bài dạy Tập làm văn có trong chương trình để từ đó xâu chuỗi được các kiến thức cần cung cấp cho học sinh qua các giờ dạy. Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, xác định đúng trọng tâm của bài. Vận dụng nhiều phương pháp và hình thức dạy học khác nhau, khắc sâu kiến thức bài giảng giúp mỗi học sinh đều hiểu và làm 
bài tập được ngay tại lớp. Đối với mỗi dạng bài tập, giáo viên cần xác định đối tượng học sinh yếu và tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài để có biện pháp giúp đỡ kịp thời giúp các em có điều kiện và niềm tin học tiếp các bài 
học sau. Bên cạnh đó, động viên khen kịp thời mỗi tiến bộ dù nhỏ của học sinh cũng làm cho các em hứng thú trong học tập, khiến cho các em tích cực, tự giác hơn trong 
quá trình tìm hiểu kiến thức của minh.
2. Kiến nghị
 - Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh. 
 - Đối với Tổ chuyên môn của nhà trường cần có các buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Tháng 2 năm 2015
Người viết
Bùi Thị Kim Thoa
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ho_tro_hoc_sinh_nham.doc