Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh xây dựng các cách mở bài, kết bài tập làm văn Lớp 4

Tục ngữ có câu : “Vạn sự khởi đầu nan”

Bước mởđầu tốt là đã thành công một nửa. Công việc là vậy, làm văn cũng vậy. Mở bài là một phần quan trọng trong cấu trúc bài văn, là đoạn mở đầu trong một sự tương quan với bộ phận chủ thể (thân bài) và bộ phận kết bài của bài văn. Nó có thể là một câu, cũngcó thể là một đoạn hay nhiều đoạn. Mở bài hay - dở sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới sự biểu đạt của chủ đề, sự thành bại của bàiviết và cả hiệu quả trình bày, khiến độc giả khi tiếp xúc với cả bài văn sẽ có được cái cảm hứng thực tình. Chính vì thế, phần mở bài cần:

  • Phải đề cập tới chủ đề của đề bài.
  • Phải tạo được sự mới mẻ, lí thú hấp dẫn, gây ấn tượng mạnh và quyến rũ

người đọc.

Ví dụ : Tả cái bàn học của em

  • Cho học sinh xác định yêu cầu đề bài.

+ Đề bài thuộc thểloại gì? (Văn miêu tả : tả đồ vật)

+ Đồ vật đó là cái gì ? ( Cái bàn học)

  • Giúp học sinh biết “cái bàn học” là chủ đề của đề bài và khi viết mở bài cần phải giới thiệu về “cái bàn học”.

+ Cái bàn đó do đâu mà có? Có từ bao giờ?

docx 31 trang Thu Nga 13/06/2025 60
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh xây dựng các cách mở bài, kết bài tập làm văn Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh xây dựng các cách mở bài, kết bài tập làm văn Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh xây dựng các cách mở bài, kết bài tập làm văn Lớp 4
 ảnh đẹp )
+ Nêu các từ ngữ gợi tả, gợi cảm và hình ảnh nhân hóa có trong đoạn viết. (hình bóng, thủy chung, bến đậu; tre thủy chung, nâng bước; điệp từ “nỗi nhớ”)
+ Các từ ngữ gợi tả, gợi cảm và hình ảnh nhân hóa đó có tác dụng gì ?
(Các từ ngữ gợi tả, gợi cảm để diễn tả cảm xúc mãnh liệt gắn bó với cây
tre; các hình ảnh nhân hóa làm cho bài văn sinh động, hấp dẫn hơn)
Với kết bài trên, hình ảnh cây tre không dừng lại ở cây cho ta bóng mát, mà tre đã trở thành biểu tượng của quê hương, tre là hình bóng của người đi xa khi nhớ về quê hương. Nỗi nhớ cây tre đồng nghĩa với nỗi nhớ quê hương.
Hoặc cũng với đề bài trên ta có thể kết bài mở rộng :
Em yêu cây tre quê hương, không chỉ bốn mùa xanh mát, mà tre đâu sợ cái giá rét của mùa đông, cái nắng gắt của mùa hè. Dù trên đất cằn sỏi đá, tre vẫn cần mẫn xanh tươi, hiên ngang, ưỡn tấm ngực đón phong ba bão táp, hiến dâng cho con người tất cả . Ôi ! Cây tre đẹp biết chừng nào !
+ Kết bài trên có gì sáng tạo ? (dùng hình ảnh nhân hóa, ca ngợi cây tre
cũng là ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của con người)
Đây là một kết bài mở rộng theo cách gửi gắm ý niệm, có ý tưởng độc đáo,
với hàm ý sâu xa, ngợi ca cây tre cũng chính là ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của con
người, một lời nhắn nhủ thật sâu sắc. Kết bài bạn đã gửi gắm điều mình muốn nói về cây tre cũng kiên cường như con người Việt Nam. Tre là biểu tượng của quê hương.
* Kết bài kiểu bày tỏ, giới thiệu :
Ví dụ : Dựa vào câu chuyện “Rùa và thỏ” để viết kết bài mở rộng.
Cho học sinh nhận xét về hai nhân vật “Rùa” và “Thỏ”
+ Thái độ của em trước cử chỉ, hành động của Rùa?
+ Em rút ra được điều gì cho bản thân ?
Từ đó gợi cho học sinh viết kết bài bằng cách bày tỏ lòng tôn kính, thán phục của em trước hành động dũng cảm của “Rùa” và nêu lời nhắn nhủ với bản thân. Cụ thể các em có thể viết: Nghe xong câu chuyện cô giáo kể, lòng tôi đầy thán phục Rùa, kính cẩn nghiêng mình trước chú “Rùa” bé nhỏ, chậm chạp, dũng cảm và tự nhủ : không bao giờ được lơ là trong học tập và rèn luyện bản thân.
Tóm lại : Với các cách mở bài, kết bài nói trên giúp cho người viết cụ thể hóa, đa dạng hóa phần mở bài, kết bài, biết lựa chọn và tạo cảm xúc khi viết. Khi dạy, tôi không dùng các từ ngữ trừu tượng như trên để nói với học sinh mà tôi sẽ dùng những từ ngữ gần gũi, dễ hiểu để các em xác định, lựa chọn các cách mở bài, kết bài phù hợp.
Tổ chức dạy các cách mở bài, kết bài theo đối tượng học sinh.
Theo quan điểm dạy học mới : dạy học dựa trên nhu cầu, hứng thú của đối tượng học sinh. Trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh nên đối với yêu cầu bài dạy mở bài, kết bài theo chương trình giáo dục phổ thông mới đối với học sinh yếu, trung bình non gặp rất nhiều khó khăn. Với đối tượng học sinh này yêu cầu các em làm mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng không phải là dễ. Nếu giáo viên không chú ý dạy học theo đối tượng học sinh mà cứ rập khuôn bắt buộc các em thực hiện theo yêu cầu của bài tập thì dẫn đến sự nhàm chán trong học tập và hiệu quả tiết dạy không cao. Vì thế, việc vận dụng và lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh cũng là một yếu tố quyết định hiệu quả giảng dạy. Để giúp học sinh thực hành viết các cách mở bài, kết bài có chất lượng và không gây áp lực đối với các đối tượng học sinh, tôi đã tiến hành như sau :
Tổ chức khảo sát chất lượng đầu năm để phân loại các đối tượng học sinh.
Dựa vào Chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình học để lập kế hoạch
dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Trong tiết học rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài hay làm bài viết, tôi khuyến khích các em học sinh khá – giỏi viết theo cách mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng còn những học sinh trung bình- yếu chỉ yêu cầu viết mở bài trực tiếp, kết bài không mở rộng. Miễn là khi viết bài, các em làm theo yêu cầu cơ bản của mở bài, kết bài, phân định được bố cục bài văn của từng thể loại văn.
Ví dụ : Tả chiếc cặp sách của em (TV4, tập 1)
+ Đối với học sinh trung bình- yếu, tôi yêu cầu các em vào bài gồm : giới thiệu trực tiếp đồ vật sẽ tả gì? Đồ vật đó có trong trường hợp nào? Có từ bao giờ? Và kết bài chỉ cần nêu cảm nghĩ của mình đối với cái cặp sách.
+ Đối với học sinh khá- giỏi, yêu cầu phần mở bài các em phải dẫn dắt nói chuyện khác có liên quan đến cặp sách (như sắp xếp lại cái tủ trong buồng hoặc quét dọn nhà cửa rồi thấy chiếc cặp,...) rồi mới giới thiệu cái cặp sẽ tả. Phần kết bài, cho các em bình luận về chiếc cặp sau khi đã tả; hoặc tả chiếc cặp xong, nêu lời căn dặn của người thân về chiếc cặp, nêu ý thức giữ gìn chiếc cặp đó của em.
Dạy học tích hợp các cách mở bài, kết bài vào các phân môn khác của môn Tiếng Việt.
Như chúng ta biết, Tập làm văn là phân môn tổng hợp nhiều mảng kiến thức. Đối với môn Tiếng Việt, các phân môn đều bổ trợ kiến thức cho nhau. Vì thế, trong quá trình lên lớp, khi dạy các phân môn của môn Tiếng Việt, tôi luôn chú trọng việc dạy văn cho các em và kết hợp tích hợp nội dung xây dựng các cách mở bài, kết bài vào các bài dạy.
Ví dụ : * Dạy tích hợpTập làm văn vào phân môn Luyện từ và câu: Khi dạy bài “Mở rộng vốn từ : Ý chí - Nghị lực”
Cho các em hiểu: Thế nào là ý chí? Thế nào là nghị lực?
Tìm các từ có nghĩa gần giống như nghĩa của hai từ ngữ “ý chí” và “nghị lực”. Cụ thể : + gần nghĩa với “ý chí” : chí khí, quyết chí, kiên nhẫn, chí hướng,...
+ gần nghĩa với từ “nghị lực”: kiên quyết, quyết tâm, kiên nhẫn,...
Đến phân môn Tập làm văn bài “Luyện tập xây dựng đoạn mở bài, kết bài” về câu chuyện “Rùa và thỏ”, tôi nhắc các em vận dụng các từ ngữ thích hợp có liên quan tới câu chuyện để diễn đạt mạch lạc, gãy gọn đúng với tính cách nhân vật rùa và thỏ. Ngoài ra còn hướng dẫn sử dụng các biện pháp tu từ (các hình ảnh so sánh, nhân hóa) trong câu văn để các em vào bài, kết bài một cách sinh động và hấp dẫn.
* Dạy tích hợp Tập làm văn vào phân môn Tập đọc :
Sau khi tìm hiểu bài xong, tôi yêu cầu các em xác định các phần mở bài, kết bài của bài đọc và cho biết chúng thuộc kiểu mở bài, kết bài nào.
+ Trong bài tập đọc “Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca” (Tập đọc lớp 4, tập 1, trang 55), đoạn kết bài tác giả viết: “Nhưng An-đrây-ca không nghĩ như vậy. Cả đêm đó, em ngồi nức nở dưới gốc cây táo do tay ông vun trồng. Mái sau này, khi đã lớn, em vẫn luôn tự dằn vặt mình : “Giá như mua thuốc về kịp thì ông còn sống thêm được ít năm nữa!”
Đoạn kết bài trên đã chỉ ra những biểu hiện cụ thể của sự dằn vặt mà An-
đrây-ca phải chịu đựng nên đây là kết bài không mở rộng theo kiểu trữ tình.
+ Trong bài “Cây gạo” của Vũ Tú Nam (Tiếng Việt 4, tập 2, trang 33 ), tác giả viết: “Hết mùa hoa, chim chóc cũng vãn. Cây gạo trở lại với dáng vẻ xanh mát hiền lành. Cây đứng im lìm cao lớn, làm tiêu cho những con đò cập bến và cho những đứa con về thăm quê mẹ.”
Tác giả gửi gắm hình ảnh cây gạo, bến đò vào hình ảnh quê hương, tình cảm của tác giả cũng như những người xa quê khi nhớ về quê, cây gạo là hình bóng của quê hương, nên đây là kết bài mở rộng theo kiểu ý niệm.
+ Trong bài tập đọc “Con Sẻ” (TV4, tập 2, trang 90 + 91 ) tác giả kết bài như sau: “Vâng lòng tôi đầy thán phục, xin bạn đừng cười. Tôi kính cẩn nghiêng mình trước con chim Sẻ bé bỏng dũng cảm kia, trước tình yêu của nó.”
Tác giả bày tỏ lòng tôn kính thán phục trước lòng dũng cảm vô song, sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình để bảo vệ con. Mục đích viết của tác giả gửi gắm qua hành động cao cả của sinh linh bé nhỏ để nhắn nhủ với chúng ta: tình mẫu tử thật thiêng liêng cao đẹp, không chỉ có ở con người mà ngay cả những loài vật bé nhỏ. Đây là kết bài mở rộng theo kiểu bày tỏ.
Vận dụng hợp lí, nhẹ nhàng các biện pháp xây dựng mở bài, kết bài trong tiết học
Để tổ chức, hướng dẫn, hình thành cho học sinh phong phú, đa dạng những kĩ năng khi viết kết bài, mở bài, hoàn thiện bài văn, từng bước nâng cao chất lượng bài Tập làm văn đạt hiệu quả, đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng nhẹ nhàng, hợp lí, không gây áp lực nặng nề với học sinh trong tiết học. Chính vì thế, tôi đã từng bước tổ chức, hướng cho học sinh xây dựng mở bài, kết bài trong tất cả các tiết dạy kể cả tiết trả bài trên mọi thể loại (kể chuyện, miêu tả ), nhưng phải tôn trọng tính sáng tạo, hồn nhiên của học sinh.
Phương pháp dạy học là dựa trên cơ sở bài làm của học sinh, tôi cho học sinh nhận xét phát hiện các dấu hiệu ; gọi tên các cách mở bài, kết bài và cung cấp thêm các cách mà học sinh còn lúng túng hoặc chưa nghĩ đến, có ví dụ minh họa cụ thể.
Ví dụ : Hãy giới thiệu về cây bút mực của em bằng một vài câu văn.
Trước hết cho các em viết tự do theo suy nghĩ của mình về cây bút mực.
Gọi vài học sinh trình bày bài làm của mình; cho lớp nhận xét.
+ Nếu bài làm của học sinh đã có đủ 2 cách mở bài thì tôi sẽ hướng dẫn các em phân biệt đoạn văn nào là mở bài trực tiếp ; đoạn văn nào là mở bài gián tiếp.
+ Nếu bài làm của học sinh chỉ có viết theo chung một kiểu mở bài trực tiếp thì tôi sẽ cung cấp một vài ví dụ về mở bài gián tiếp, rồi cho học sinh nhận xét, so sánh điểm khác với các mở bài trên. Qua đó các em phân biệt được có 2 cách mở bài để giới thiệu về cây bút mực.
KẾT QUẢ
Trong nhiều năm giảng dạy lớp 4,5, tôi đã vận dụng các biện pháp xây dựng các cách mở bài, kết bài nói trên vào giảng dạy phân môn Tập làm văn. Tôi nhận thấy rằng :
Chất lượng giờ học Tập làm văn đã được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng thú tham gia hoạt động học tập và có kĩ năng làm bài vững vàng. Nhiều em đã bộc lộ sự đam mê học văn, làm văn. Các em đã có “vốn” để viết văn, đã phân định được các kiểu mở bài, kết bài. Với cách dạy học trên , đã khuyến khích được học sinh khá giỏi viết văn có ý tưởng sâu sắc hơn. Đặc biệt các em đã vận dụng các cách mở bài, kết bài vào bài làm một cách linh hoạt, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Nội dung bài viết các kiểu mở bài, kết bài của học sinh phong phú, đa dạng và không theo một khuôn mẫu nhàm chán.
Với cách phân loại cụ thể các kiểu mở bài, kết bài, khi lên lớp, tôi được trang bị vốn kiến thức khá vững vàng để dạy các bài luyện tập xây dựng đoạn văn mở bài, kết bài cũng như thực hành làm bài viết, các tiết trả bài và tôi rất tự tin khi dạy phân môn Tập làm văn.
Qua các lần kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kì phân môn Tập làm văn hai lớp 4A và 4B trường chúng tôi trong năm học này, kết quả bài làm của học sinh cụ thể như sau :
Thời gian
Lớp
TSHS
Giỏi
Khá
TB
Yếu

KT


SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
KSĐN
4A
32
3
9,4
8
25,0
16
50,0
5
15,6
4B
30
3
10,0
9
30,0
15
50,0
3
10,0
GHKI
4A
32
4
12,5
11
34,4
14
43,8
3
9,4
4B
30
7
23,3
12
40,0
11
36,7
/
/

CHKI
4A
32
7
21,9
14
43,8
10
31,2
1
3,1
4B
30
9
30,0
13
40,6
8
26,7
/
/

(trong đó: với học sinh yếu- trung bình chỉ yêu cầu viết đoạn mở bài gián tiếp; học sinh khá- giỏi viết mở bài theo hai cách )
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để nâng cao chất lượng viết các cách mở bài, kết bài trong phân môn Tập làm văn, đòi hỏi người giáo viên đảm bảo những yêu cầu sau:
Nắm vững các yêu cầu cần đạt cho từng cách mở bài, kết bài để giúp các em phân định rạch ròi kiến thức cho mỗi phần trên.
Phân loại các đối tượng học sinh để ra bài tập phù hợp với trình độ của
học sinh giúp các em hoàn thành được bài học.
Cần chuẩn bị bài chu đáo, làm chủ tiết dạy để đủ tự tin hướng dẫn học sinh khai thác các bài tập trong tiết Tập làm văn. Tập diễn đạt trôi chảy, khúc chiết và có “hồn” khi hướng dẫn các em viết câu văn, đoạn văn. Đồng thời biết tổ chức các hình thức dạy học phong phú để gây hứng thú học văn ở học sinh, tạo cơ hội cho nhiều học sinh cùng tham gia trình bày ý kiến của mình.
Phải thường xuyên đọc nhiều tài liệu (sách báo, văn mẫu) để tăng thêm vốn từ ngữ, vốn văn cho bản thân, từ đó giúp giáo viên dạy tốt môn Tiếng Việt. Cần có thói quen ghi chép tích lũy vào sổ tay những mở bài, kết bài hay để làm tư liệu minh họa cho học sinh khi cần thiết, giúp các em hiểu thêm về các cách vào bài, kết bài cụ thể cho một bài văn.
Sau mỗi tiết dạy rèn kĩ năng viết văn cho học sinh, giáo viên cần đọc cho học sinh nghe nhiều mở bài, kết bài hay bài làm của các bạn trong lớp hoặc một số mở bài, kết bài ở các bài văn mẫu để nhằm từng bước khơi dậy lòng yêu thích văn chương.
Phải chú ý lắng nghe các ý kiến trình bày của học sinh để tìm ra ưu, khuyết điểm chính để nhận xét, hướng dẫn các em chỉnh sửa câu, từ chưa đạt trong đoạn viết của mình, từ đó giúp các em khắc phục cho lần sau.
Không phải chỉ đến môn Tiếng Việt mà ở bất kì giờ học nào, tiết học nào, giáo viên phải chú ý dạy văn cho học sinh.
Kết luận : Mở bài, kết bài là bộ phận trong tổng thể bài văn, cũng giống như trong một cơ thể con người, bộ phận nào cũng quan trọng tạo thành hình hài.
Để học sinh có những bài văn hay, người giáo viên phải nắm đựơc bản chất của quá trình dạy học, phải mày mò tìm kiếm, chắp nhặt kiến thức, vốn sống của bản thân để khi lên lớp có đủ tự tin tổ chức hướng dẫn cho học sinh tiếp cận kiến thức một cách vững chắc. Học văn, làm văn là một sự khổ luyện khắt khe, rèn dũa trong từng ý nghĩ, câu chữ, sự rung cảm trước thế giới muôn màu sắc, sự nhặt nhạnh từ kiến thức sách vở, sự đồng cảm thực sự của tâm hồn để nhào nặn thành đoạn văn, bài văn. Đây quả là một quá trình khó khăn đối với học sinh Tiểu học. Đặc biệt trong lúc xu hướng học sinh chán học văn, vốn sống hạn hẹp, người giáo viên phải biết khơi nguồn sự đam mê của các em, đưa các em đến gần với văn chương bằng sự hào hứng, khám phá những điều kì diệu bằng sự cảm nhận chân thực, những ý tưởng độc đáo, tính nhân văn cao cả mà cuộc sống, con người, thiên nhiên mang đến cho các em được lưu lại qua những bài văn.
Trên đây là một vài biện pháp hướng dẫn học sinh xây dựng các cách mở bài, kết bài trong phân môn Tập làm văn lớp 4 mà tôi đã rút ra được từ thực tế giảng dạy song không sao tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các đồng chí góp ý thêm cho bản kinh nghiệm của tôi được đầy đủ và hoàn thiện hơn, giúp tôi thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn nữa trong việc rèn kĩ năng viết văn cho học sinh cũng như góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho các em./.
Buôn Trấp, ngày 05 tháng 01 năm 2011
Người viết :
Đinh Thị Minh Phượng
Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_xay_dun.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh xây dựng các cách mở bài, kết bài tập làm văn L.pdf