Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn Lớp 2

Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng tổng hợp từ nhiều phân môn khác nhau như: Học vần, Tập viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu để làm được một bài văn học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng:

“Nghe, nói, đọc, viết”. Phải vận dụng những kiến thức về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tạo lập văn bản, trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan quan mật thiết đến các môn học khác.

Dạy Tập làm văn để làm sao cho môn học trở nên hấp dẫn và cập nhật, khuyến khích và huấn luyện con người khả năng cảm thụ, tự do bộc lộ suy nghĩ, biểu cảm, kĩ năng sống, biết yêu thương, có trách nhiệm và gắn kết cộng đồng.

Trong quá trình dạy học phân môn Tập làm văn, người giáo viên cần dạy cho học sinh viết đúng yêu cầu, viết đủ số lượng câu, viết gọn, rõ ràng, tính kỉ luật, tính cẩn thận, thận trọng trong công việc, lòng tự tin của bản thân. Học Tập làm văn chính là cơ sở, là nền tảng để học tốt các môn học khác nhằm thực hiện đúng mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra nhằm đào tạo cong người mới.

docx 13 trang Thu Nga 08/09/2025 40
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn Lớp 2
n thông tin vào phiếu:
Phiếu bài tập
Bài : Kể về người thân
Người thân em định tả
Năm nay bao nhiêu tuổi, nghề nghiệp
Dáng người
Khuôn mặt
Mái tóc
Giọng nói
Yêu quý chăm sóc em như thế nào
..............
...............
..............
...............
..............
.............
...............
     Sau khi học sinh về nhà tìm hiểu và đến tiết học cùng trao đổi với cả lớp thì tôi cũng cung cấp thêm cho các con vốn từ tả người như: ông bà, bố me, anh chị em, em bé... để các em có thêm vốn từ để tả cho bài văn thêm sinh động và giàu hình ảnh. Tôi cũng cung cấp thêm cho học sinh vốn từ như sau:
Câu hỏi: Người thân của em bao nhiêu tuổi? Làm nghề gì? Tôi đã giúp học sinh biết được độ tuổi của ông bà, bố mẹ, anh ( chị, em).
Để giúp học sinh có vốn từ về hình dáng của ông bà, bố mẹ, anh( chị, em) thì tôi chiếu hình ảnh cho các con quan sát sau đó sẽ tìm ra những từ chỉ hình dáng con người như:
          + Dáng ông, bà: hơi còng, lưng không còn thẳng nữa,...
          + Dáng bố, mẹ: cao to, dong dỏng cao, nhỏ nhắn,...
           + Dáng anh ( chị, em): cao, gầy, bầu bĩnh,...
          Từ ngữ về mái tóc thì tôi cũng dùng hình ảnh để cung cấp vốn từ cho các con.
          Nhìn tranh học sinh nói được về mái tóc của ông bà, bố mẹ,...
           + Mái tóc ông bà: tóc điểm nhiều sợi bạc, bạc trắng như cước,...
          + Tóc mẹ: mượt mà, óng ả, bông bềnh, xoăn,...
           + Tóc bố: ngắn, cắt tỉa gọn gàng,...
            + Tóc em: ngắn, lơ thơ, tết thành hai bím,...
           Câu hỏi: “ Người thân của em yêu quý, chăm sóc em như thế nào?” thì học sinh đa phần chỉ nói được là rất yêu thương em. Tôi cũng hỏi thêm một số câu hỏi cho học sinh là: Ông bà, bố mẹ có chiều chuộng con không? để bật ra từ “ chiều chuộng” hoặc câu hỏi: Khi con mắc lỗi ông bà, bố mẹ đối với con như thế nào? nếu học sinh khó trả lời tôi hỏi thêm: Thế mọi người có mắng con không? để bật ra từ
“ nhẹ nhàng khuyên bảo”... tương tự cách hỏi như vậy để học sinh có thêm nhiều từ nói về tình cảm của người thân yêu quý và chăm sóc các con đó là các từ: yêu em, có gì ngon cũng đề dành phần cho em, dạy em học, dạy em làm việc nhà, kể chuyện cho em nghe.
          Tôi yêu cầu mỗi học sinh có một cuốn sổ tay mà trong đó các em sẽ ghi lại các từ ngữ tả người mà các con biết và các từ được cô giáo cung cấp thêm để khi viết các con sẽ có vốn từ phong phú, câu văn giàu hình ảnh nhờ cuốn cẩm nang này.
Biện Pháp 3 : Rèn kỹ năng viết cho học sinh
          Mục tiêu :Giúp học sinh biết cách viết đoạn văn và viết tốt.
          Nội dung :Rèn cho học sinh viết đủ câu, có tính liên kết giữa các câu, sử dụng hình ảnh so sánh
           *Hướng dẫn học sinh lựa chọn đối tượng trước khi viết .
          Ví dụ 1 : Khi đọc đề: Em hãy tả một mùa mà em yêu thích. 
           Việc đầu tiên giáo viên phải yêu cầu học sinh là phải xác định đối tượng con đình tả là mùa nào trong năm. Sau đó tìm các kiến thức có liên quan đến các mùa. Ví như đặc trưng của mùa hè là: Mặt trời, nắng, gió, cây cối, mây, mưa... khi nắm được các dự kiện có liên quan đến mùa hè thì các em sẽ tìm hiểu về mùa hè để biết được mặt trời như quả cầu lửa, mặt trời đỏ rực; cây cối xanh tươi, nắng chói chang,...  Học sinh xác định được đối tượng, có các thông tin dự kiện đầy đủ về đối tượng đó thì học sinh sẽ viết rất tốt.
          Ví Dụ 2 : Đề Em hãy kể ngắn về người thân trong gia đình
           Đề này học sinh vẫn phải xác định được người thân mình định tả là ai. Là ông hay bà, bố hay mẹ. Sau đó thu thập các thông tin về người xác định viết. Làm nghề gì? Hằng ngày, làm những việc gì? Những việc ấy có ích như thế nào? Khi đã có đầy đủ thông tin thì học sinh sẽ viết theo các câu hỏi gợi ý.
           *Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi gợi ý .
           - Hướng dẫn học làm miệng, trả lời miệng câu hỏi. Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều cách khác nhau.
          - Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng, cung cấp và gợi ý để các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ. Tôi có thể đưa ra câu mẫu có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để câu văn thêm sinh động. Ban đầu tôi thấy các em cũng bắt chước để nói câu có hình ảnh so sánh nhưng những hình ảnh đó học sinh dùng từ chưa phù hợp. Lúc này tôi sẽ chỉnh cho các em và lưu ý lựa chọn hình ảnh so sánh phù hợp với sự vật.
            - Sau đó tôi hướng dẫn các em sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý đề hoàn chỉnh bài làm miệng. Rồi mời 1 đến 2 em nói lại toàn bộ đoạn văn theo câu hỏi gợi ý. Tiếp đó, các em sẽ viết đoạn văn vào vở.
            - Tôi cũng sưu tầm một số những bài văn hay của học sinh năm học trước đọc cho các em nghe để các em học tập cái hay và cách viết của các anh chị đi trước.
          Ví dụ: Dạy học sinh tả cô giáo, tả mẹ... nếu không dùng biện pháp so sánh thì bài làm sẽ khô khan. Khi tả mái tóc của cô giáo học sinh đã làm “ Mái tóc của cô rất đẹp.”. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh viết câu văn có sử dụng hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa để câu văn giàu hình ảnh hơn như : “ Mái tóc của cô dài mượt mà, thướt tha như dòng suối”. Hoặc tả giọng nói của cô “ Giọng cô trầm ấm” thay bằng “ Giọng cô êm dịu như lời mẹ ru”.
           Hướng dẫn học sinh viết câu văn có hình ảnh, sinh động tức là tập cho học sinh miêu tả văn học chứ không khô khan như khoa học, toán học.
Trong khi hướng dẫn học sinh làm bài bản thân giáo viên cần hiểu rõ phải hướng dẫn học sinh bộc lộ cảm xúc. Cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết luận mà còn bộc lộ trong từng câu, từng đoạn. Nếu các em biết đan xen, lồng ghép bộ lộ cảm xúc thì đoạn văn sẽ sinh động, giàu cảm xúc hơn, nó không khô khan sa vào liệt kê sự việc.
            Sách giáo khoa lớp 2, bài Tập làm văn nói – viết thường có câu hỏi gợi ý, các câu hỏi này sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn; học sinh dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; từ đó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp. Giúp học sinh nắm vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng lặp, chồng chéo, không có sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn
          Ví dụ:
Bài viết về một người thân
           - Người thân của em là ai?
           - Năm nay người ấy bao nhiêu tuổi? Làm công việc gì?
           - Tình cảm của người ấy đối với em ra sao?
           - Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?
Bài viết về một loại quả
          - Tên loại quả ấy là gì? Em đã nhìn thấy nó ở đâu?
          - Hình dáng bên ngoài ra sao? Bên trong như thế nào?
          - Vì sao em thích loại quả ấy?
Bài viết kể về gia đình em
           - Gia đình em gồm có mấy người? Đó là những ai?
           - Kể từng người trong gia đình em.
           - Mỗi người trong gia đình quan tâm nhau như thế nào?
          - Tình cảm của em đối với gia đình như thế nào?
           * Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn 
           - Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết (Có thể diễn đạt bằng một câu).
          - Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có thể diễn đạt 2, 3 câu tùy theo năng lực học sinh.
            - Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ, mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
          Ví dụ: Viết về một con vật:
           - Con vật em định kể là con vật gì?Nó sống ở đâu?
          - Hình dáng nó như thế nào?
           - Hoạt động của nó có gì nổi bật? Nó đem lại lợi ích gì?
           - Tình cảm của em đối với con vật đó?
            Khi tả về con vật nuôi mà em yêu thích thì tôi hướng dẫn các con như sau:
          + Câu mở đầu: Giới thiệu về con chó.
            Nhà em có nuôi một chú chó tên là Mi – lu.
          Hoặc: Sinh nhật lần thứ 7 của em, bố em tặng cho em một chú chó rất đáng yêu. Em đặt tên cho chú là Mi – lu.
           + Câu phát triển: Nó có bộ lông màu trắng muốt. Đôi mắt nó xanh lè và tròn như hai hòn bi ve. Đôi tai rất thính, lúc nào cũng vểnh lên như nghe ngóng điều gì. Nó trông nhà rất giỏi. Mỗi khi em đi học về cái đuôi nó lại ngoáy tít như vẫy chào đón em.
          + Câu kết thúc: Em sẽ chăm sóc chú cẩn thận. Hằng ngày, em sẽ cho chú ăn xương món ăn mà chú thích nhất. Em rất yêu chú chó nhỏ của em.
Nắm vững trình tự khi viết một đoạn văn thì các em sẽ không sắp xếp lộn xộn các ý khi viết.Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm các em được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động hình thành kỹ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và đòi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình thành. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải kiên nhẫn, luôn tái  hiện và lặp lại kiến thức cho học sinh trong suốt năm học, giúp học sinh có được nền móng tốt cho việc học tập môn Tập làm văn ở các lớp trên.
          * Hướng dẫn diễn đạt:
           Như đã nói, do tâm lí lứa tuổi nên bài văn thực hành của học sinh lớp 2 tuy có ý tưởng, nhưng vẫn còn nhiều sai sót về diễn đạt như: dùng từ chưa chính xác, ý trùng lắp, các ý trong đoạn văn chưa liên kết nhau nên trình bày chưa rõ ràng mạch lạc. Vì vậy, khi học sinh trình bày, giáo viên phải hết sức chú ý lắng nghe, ghi nhận những ý tưởng hay, ý có sáng tạo của học sinh để khen ngợi; đồng thời phát hiện những sai sót để sửa chữa. Giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể để học sinh làm cơ sở lắng nghe bạn trình bày; phát hiện những từ, ý, câu hay của bạn để học hỏi và những hạn chế của bạn để góp ý, sửa sai.
          Ví dụ:Khi viết về vầng trán Bác Hồ có em viết “Vầng trán Bác cao thể hiện sự oai hùng. Đó là sự kết hợp thiếu hình ảnh, thiếu chính xác. Trong ngữ cảnh này tôi sẽ sửa cho các em dùng từ “thông minh” để thay thế “Vầng trán cao biểu lộ sự thông minh”.
            Trường hợp học sinh dùng từ chưa chính xác như các từ ngữ chưa phù hợp, nghĩa từ chưa hay hoặc từ thông dụng địa phươngví dụ: “Cô giáo em rất chăm chỉ trong giảng dạy”, “ Cô em thường bận đồ xanh” khi học sinh phát hiện sai sót đó, giáo viên giúp các em sửa chữa thay đổi từ phù hợp. Đối với từ học sinh dùng trùng lặp nhiều lần trong một câu, ví dụ: “Anh Nam là anh của me, anh rất tốt với em, anh luôn giúp em học bài” giáo viên hướng dẫn học sinh lượt bớt từ hoặc dùng từ phù hợp để thay thế. Trong trình bày bài văn, học sinh vẫn thường dùng từ ngôn ngữ nói, giáo viên nên hướng dẫn học sinh thay thế bằng từ ngôn ngữ viết trong sáng hơn.
            Học sinh nói viết câu chưa hay chưa đủ ý, giáo viên cần hướng dẫn học sinh sửa chữa bổ sung ý vào cho đúng; câu dài dòng ý chưa rõ ràng mạch lạc cần cho học sinh sửa sai lượt bỏ ý dư ý trùng lặp. Giáo viên khuyến khích học sinh tự sửa câu văn chưa hay của mình bằng những câu văn hay của bạn.
          * Hướng dẫn viết đoạn văn có dùng từ ngữ liên kết.
     Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn nếu học sinh trình bày đủ nội dung theo gợi ý đã cho thì bài văn của các em xem như hoàn chỉnh. Nhưng để có một đoạn văn mạch lạc rõ ràng, ý tưởng liên kết chặt chẽ nhau thu hút được người đọc; giáo viên cần giúp các em biết viết đoạn văn có mở và kết đoạn, biết dùng từ liên kết câu, dùng câu liên kết đoạn một cách hợp lí và sáng tạo.
          Ví dụ: Với gợi ý kể biển từng gợi ý phần mở đoạn có rời rạc, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh liên kết các ý với nhau, khi kể không theo trình tự từng ý nhưng vẫn đảm bảo nội dung và làm cho phần mở đoạn sinh động lôi cuốn người đọc hơn. Hoặc hướng dẫn học sinh dùng những câu mở đầu đoạn văn để nói hoặc kể một cách sáng tạo.
          Giáo viên cần khuyến khích học sinh sử dụng những từ liên kết câu thể hiện trình tự diễn biến của sự việc như: “đầu tiên”; “kế tiếp”; “sau đó”; “cuối cùng” để đoạn văn gắn kết chặt chẽ liên tục từng ý với nhau. Do đặt điểm lứa tuổi và trình độ từng đối tượng học sinh không đồng đều nhau nên các em chưa hiểu nhiều về từ, câu liên kết trong đoạn văn viết; vì vậy giáo viên cần hướng dẫn bằng những gợi ý giản đơn dễ hiểu, có thể cho học sinh khá giỏi làm mẫu để giúp các em trình bày tốt hơn đoạn văn viết của mình. Trong việc hướng dẫn học sinh sửa chữa bài viết, giáo viên cần đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể giúp học sinh phát hiện những đoạn văn hay, ý tưởng phong phú sáng tạo đồng thời phát hiện những hạn chế còn vấp phải trong bài viết. Từ đó học sinh có sự suy nghĩ để sửa chữa cách diễn đạt ý tưởng trong bài viết của mình một cách hợp lí và sáng tạo.
          Giáo viên khuyến khích học sinh sử dụng các mẫu câu đã học để vận dụng viết đoạn văn cho câu văn thêm phong phú.
Ví dụ : Bài kể về người thân
         Bố em tên là Nguyễn Tuấn Anh. Năm nay, bố ba mươi lăm tuổi. Bố là một bác sĩ. Dáng người bố hơi đậm. Mái tóc bố cắt ngắn gọn gàng trông rất đẹp trai. Hằng ngày, bố đến bệnh viện khám bệnh cho mọi người. Chiều về, bố đón em tan học và giúp mẹ nấu cơm. Tối đến, bố dạy em học bài. Em rất yêu bố.
       Trong bài văn này có sử dụng mẫu câu “  Ai là gì?”, “ Ai làm gì ?”, “ Ai thế nào?” giúp các câu văn thêm phong phú và không bị lặp mẫu câu.
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
            * KẾT LUẬN
          Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả học tập phân môn Tập làm văn của lớp tôi có nhiều tiến bộ, các em thích thú, háo hức, chờ đợi đến phân môn Tập làm văn để thể hiện mình trước bạn bè và thầy cô giáo. Các em rất tự tin mỗi khi khám phá, viết đoạn văn theo cách riêng của mình. Với niềm đam mê đó, bài viết của các em đạt yêu cầu rất cao. Nhiều em diễn đạt trôi chảy, gãy gọn, rõ ràng và hấp dẫn, phong phú hơn trong môn Tập làm văn. Nhiều em học sinh viết văn tốt hơn và chất lượng môn Tiếng Việt rất khả quan. Cụ thể trong từng năm học như sau:
Tổng số HS: 
Số em viết chưa đạt yêu cầu
Số em viết đạt trung bình
Số em viết khá
Số em viết tốt
51
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
0
0
1
2
38
74,5
12
23,5
          Qua việc thực hiện các giải pháp trên, tôi rút ra bài học sau:
           - Hình thành cho các em thói quen học tập, làm việc một cách khoa học: Đọc kỹ đề bài, xác định yêu cầu của đề bài, quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học, câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh hình thành kĩ năng và kiến thức mới.
           - Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh luôn suy nghĩ, tìm tòi để phát triển tư duy, khơi gợi niềm say mê ở các em, học cách ghi nhớ để nhớ lâu kiến thức.
           - Sử dụng nhiều hình thức thi đua, khen thưởng để khuyến khích các em nỗ lực học tập.
          * KHUYẾN NGHỊ
             Nhà trường cần khích lệ, tuyên dương học sinh học giỏi phân môn Tập làm văn hằng tháng, học kỳ.
           Đối với học sinh từ lớp Một, cần luyện nói theo chủ đề trong sách Học vần để rèn tính tự tin và diễn đạt trôi chảy hơn cho các em khi các em lên lớp 2.
           Nhà trường phối hợp cùng với giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh đẩy mạnh phong trào học tốt phân môn Tập làm văn hơn.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_viet_to.docx