Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 5A1 trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm học tốt văn miêu tả
Trong trường Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học cơ bản nhất, là tiền đề, là cơ sở tiếp thu các môn học khác. Dạy học Tiếng Việt phải hướng học sinh yêu Tiếng Việt nhằm hình thànhở các em nhu cầu thưởng thức cái đẹp, khả năng rung cảm trước cái đẹp, trước những buồn vui, yêu, ghét của con người, hình thành ở các em thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếng Việt là một môn học có vị trí quan trọng trong chương trình Tiểu học. Đây là môn học vừa có vai trò trang bị cho học sinh công cụ ngôn ngữ, vừa là môn học thuộc khoa học Xã hội và Nhân văn có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những kiến thức khoa học về Tiếng Việt, những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học sinh tự hoàn thiện nhân cách của mình ở phương diện ngôn ngữ và văn hoá. Với nhiệm vụ của môn học cộng cụ, học sinh cần học tốt môn học này để có cơ sở học tốt những môn học khác.
Ở Tiểu học, Môn Tiếng Việt có các phân môn: Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện và Tập làm văn. Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có vị trí, tầm quan trọng rất lớn, nó góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em giao tiếp trongcuộc sống hàng ngày và học tốt các môn học khác. Nếu như các phân môn khác của Tiếng Việt cung cấp cho các em một hệ thống kiến thức kĩ năng thì phân môn Tập làm văn tạo điều kiện cho các em thể hiện các kiến thức, rèn luyện kĩ năng đó một cách linh hoạt thực tế và có hệ thống hơn. Học các tiết Tập làm văn học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình của các nhà văn tên tuổi. Khi phân tích đề Tập làm văn, học sinh lại có dịp hướng tới cái chân, cái thiện, cái mĩ được định hướng trong các đề bài. Khi quan sát trong miêu tả, học sinh được rèn luyện cách nhìn đối tượng trong quan hệ gần gũi giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên...Những cơ hội đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với con người của trẻ nảy nở, tâm hồn tình cảm của trẻ thêm phong phú. Đó là nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp trong trẻ.
Trong phân môn Tập làm văn thì văn miêu tả là thể loại văn có vai trò quan trọng trong chương trình Tập làm văn ở bậc Tiểu học. Như chúng ta đã biết trong đời sống, muốn mọi người cùng nhận ra những điều mình thấy, đã sống…chúng ta phải miêu tả. Học các tiết Tập làm văn miêu tả học sinh có điều kiện để gần gũi với thiên nhiên và yêu thiên nhiên hơn từ đó có ý thức bảo vệ thiên nhiên tươi đẹp xung quanh mình.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 5A1 trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm học tốt văn miêu tả

đã được vận dụng vốn sống thực tế nào của người viết? Bài viết nhìn nhận sự vật, hiện tượng bằng những giác quan nào? Từ đó có thể hỏi học sinh “Em đã học được những gì trong cách miêu tả của tác giả?” Phân môn Kể chuyện Trong chương trình Tiểu học mới, phân môn kể chuyện được chia làm 3 dạng bài: Kể chuyện theo tranh; Kể chuyện đã nghe, đã đọc; Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. Dạng nào cũng yêu cầu học sinh phải diễn đạt trôi chảy ngôn từ mà các em đã có, đặt biệt là dạng bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. Mục đích dạy Kể chuyện là rèn kĩ năng nói cho học sinh mà để có được văn bản để nói thì học sinh phải chuẩn bị, phải viết được ra những điều mình đã thấy, đã chứng kiến. Việc kể chuyện đòi hỏi học sinh phải diễn đạt gẫy gọn, thành câu, dùng từ chính xác. Nhất là dạng bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia lại đòi hỏi các em phải có sự quan sát, ghi nhớ các sự kiện xảy ra để viết thành bài sau đó kể lại. Việc làm này rất có ích khi các em vận dụng nó vào việc làm văn của mình. Kể chuyện cũng như làm văn phải biết lựa chọn chi tiết đặc sắc, chi tiết đắt giá, lựa chọn câu từ hình ảnh phù hợp; phải biết lựa chọn các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá đúng lúc, đúng chỗ; phải biết gắn tình cảm của mình vào trong câu chuyện được kể thì câu chuyện mới hấp dẫn người nghe; Ví dụ: Khi dạy tiết Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, tôi hướng dẫn học sinh: đọc kĩ đề bài, gạch chân các từ ngữ quan trọng ở đề bài, xây dựng dàn ý, cách dùng từ đặt câu, lựa chọn hình ảnh phù hợp với từng đề bài. Phân môn Luyện từ và câu. Phân môn Luyện từ và câu đóng góp phần không nhỏ vào quá trình học Tập làm văn của học sinh. Ở phân môn này học sinh được cung cấp và làm giàu vốn từ của mình.Qua các bài học ở sách giáo khoa các em hiểu biết về loại từ, từ loại, về từ đồng nghĩa, trái nghĩa. Từ đó, rất đơn giản các em hiểu khi nào thì đặt câu với từ" bát ngát", khi nào thì sử dụng từ " thênh thang" trong viết văn.Trong các bài học về Luyện từ và câu phần hệ thống hóa và mở rộng vốn từ ở các chủ đề, khi hiểu nghĩa của các từ ngữ, học sinh cần phải học thuộc và nắm vững các từ thuộc từng chủ đề để sau này vận dụng các từ ngữ đó vào viết tập làm văn ( đây là dạng bài cung cấp và làm giàu vốn từ nhất cho học sinh ) Ví dụ 1: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ: "Thiên nhiên" sau khi cung cấp vốn từ cho học sinh, tôi yêu cầu học sinh nhớ và thuộc các từ miêu tả không gian, sông nước. để các em vận dụng vào viết văn miêu tả cảnh thiên nhiên nơi em ở. Ví dụ 2: Hay khi dạy bài Luyện từ và câu Liên kết các câu trong bài bằng cách lặp từ ngữ, thay thế từ ngữ, tôi lưu ý học sinh khi viết đoạn văn cần sử dụng linh hoạt các cách liên kết câu khi nào dùng cách lặp từ ngữ, khi nào dùng thay thế từ ngữ để đoạn văn hay hơn. Hay khi làm bài văn miêu tả tránh lặp lại từ thì dùng các từ ngữ thay thế cho phù hợp. Mặt khác dạng bài tập dùng từ đặt câu, viết đoạn theo chủ đề cần được chú trọng trong từng tiết luyện từ và câu, bởi đây chính là cơ sở để hình thành cách viết văn cho học sinh sau này. Ví dụ: Khi dạy bài Luyện tập về từ đồng nghĩa có bài tập: “Dựa theo ý một khổ thơ trong bài Sắc màu em yêu, hãy viết một đoạn văn miêu tả màu sắc đẹp của những sự vật mà em yêu thích. Trong đó chú ý sử dụng từ đồng nghĩa”. Ở bài tập này tôi hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn, cách dùng từ đặt câu. Đoạn văn ở đây có thể là viết về cánh đồng với nhiều màu vàng khác nhau, có thể là cảnh trời mùa thu với sắc xanh ngắt của trời, xanh tươi của cây cốiTừ đó học sinh vận dụng cách viết vào tiết Tập làm văn tả cảnh. Ngoài ra các dạng bài tập điền từ vào chỗ chấm; tìm từ lạc trong nhóm từ; sửa từ chưa chính xác trong các câu; sửa lỗi liên kết câu; tìm từ giàu hình ảnh, sinh động để biểu đạt các sự vật, hiện tượng (đối tượng miêu tả) học sinh cần đề cập tới trong bàiCác dạng bài tập này tôi thường cho HS làm vào một số tiết học tăng buổi. Việc làm giàu vốn từ cho học sinh bằng các hoạt động dạy học nói trên thì giáo viên không chỉ yêu cầu sáo rỗng với học sinh là các em cần học thuộc vốn từ đã học mà cần giúp học sinh biết sử dụng "sổ tay vốn từ", hình thành thói quen khi gặp “ từ hay ” là ghi ngay vào sổ và thường xuyên đọc sách, báo thiếu nhi, sách những bài văn chọn lọc dành cho học sinh Tiểu họcĐồng thời có kế hoạch kiểm tra hàng tháng, biểu dương những học sinh có sổ tay tích lũy được nhiều từ mới. Việc hình thành thói quen đọc sách, báo cho học sinh tôi tiến hành vào các buổi sinh hoạt 10 phút đầu giờ bằng phương pháp thi đua giữa các nhóm, tổ học tập. Tổ chức vào một số tiết học ngoài giờ chính khoá với các dạng bài tập làm quen và sử dụng từ để đặt câu. Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý Mục tiêu Giúp học sinh tìm, lựa chọn các chi tiết miêu tả đầy đủ để tránh thiếu sót và sắp xếp lộn xộn các chi tiết khi viết bài văn hoàn chỉnh. Nội dung, cách thức và điều kiện thực hiện giải pháp Sau khi học sinh đã biết quan sát, tìm ý, lựa chọn chi tiết cho bài văn thì việc cần làm tiếp theo là học sinh cần lập dàn ý cho bài văn của mình. Lập dàn ý tức là hướng dẫn học sinh viết những ý tìm được theo trình tự miêu tả nhất định để từ đó các em có hướng để viết bài văn hoàn chỉnh. Lập được dàn ý chi tiết, đủ ý thì khi viết thành bài văn hoàn chỉnh các em sẽ không bị thiếu ý, các chi tiết không bị sắp xếp lộn xộn trong bài văn. Bài văn được miêu tả theo trình tự không gian hay thời gian là khi lập dàn ý các em đã phải lựa chọn cho phù hợp với sự quan sát của mình. Một bài văn miêu tả bao gồm ba phần: mở bài, thân bài, kết bài. Ba phần này ở những kiểu bài miêu tả khác nhau có những sự khác nhau bởi đối tượng miêu tả và cách thức miêu tả. Tuy nhiên, tôi tìm ra những nét chung nhất có thể thấy ở nội dung cơ bản của từng phần để hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho từng thể loại văn miêu tả. Là văn miêu tả dù ở thể loại nào như tả cây cối, tả đồ vật, tả cảnh hay tả người thì dàn bài chung cũng có chung như sau: Mở bài Bất cứ ở thể loại nào phần mở bài cũng giới thiệu đối tượng miêu tả. Ở phần mở bài tôi thường hướng dẫn học sinh giới thiệu những điểm cần thiết tuỳ thuộc vào đối tượng miêu tả. Ví dụ như: Đối tượng em miêu tả là gì? Em quan sát đối tượng vào lúc nào? Đối tượng có quan hệ với em ra sao? Em định mở bài theo hướng nào? Trực tiếp hay gián tiếp? Sau khi định hướng như vậy học sinh sẽ có cách mở bài phù hợp với bài văn của mình không bị lạc đề ngay ở phần mở bài. Thân bài Trong phần thân bài, tôi hướng dẫn học sinh có thể tả theo nhiều cách khác nhau: tả theo trình tự không gian, tả theo trình tự thời gian, tả theo trình tự của các đặc điểm.... Và tuỳ vào đối tượng miêu tả mà hướng dẫn, gợi ý cho các em lựa chọn trình tự miêu tả cho hợp lí. Có thể hướng dẫn học sinh tả sắp xếp các ý theo trình tự: Tả bao quát những nét chung nhất: Đối với vật là hình dáng, màu sắc, chất liệu và các bộ phận tạo thành... (đối với bài văn tả đồ vật, cây cối) Đối với cảnh là những đường nét, hình khối, không gian bao quanh cảnh được tả. Đối với người và loài vật là ngoại hình, dáng vẻ, tính nết hoạt động. Tả những nét riêng cá biệt, đặc sắc của đối tượng: Tả những điểm khác biệt, độc đáo của đối tượng so với đối tượng cùng loại khác (về hình dáng, chất liệu, màu sắc, đường nét, tính nết ) Tả chi tiết cụ thể về một đặc điểm đáng chú ý nhất, gây nhiều ấn tượng cho người viết. Với mỗi loại đối tượng khác nhau nên chọn những khía cạnh khác nhau để đi sâu miêu tả cho phù hợp. Nêu suy nghĩ riêng của bản thân về đối tượng miêu tả: Nêu những kỉ niệm của mình với đối tượng miêu tả. Nêu công dụng (với đồ vật), lợi ích (với cây cối, loài vật), quan hệ tình cảm (với tả người) và những suy nghĩ khác đối với đối tượng được miêu tả. Kết bài Nêu những ấn tượng sâu đậm đối với đối tượng được tả. Nêu những liên tưởng, những suy nghĩ khác về đối tượng. Rút ra những lời khuyên, lời hứa đối với đối tượng được tả. Trên đây chỉ là những nét chung nhất của một dàn ý trong bài văn miêu tả mà tôi gợi ý cho học sinh. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy, tôi thấy dàn ý này có thể được những học sinh có năng khiếu văn phức tạp hoá thêm. Các em có thể tả đan xen giữa cái chung với nét riêng biệt cá nhân của đối tượng; các em cũng có thể vừa tả vừa lồng việc phát biểu cảm nghĩ. Trong khi tả theo trình tự thời gian các em cũng có thể chia thời gian theo năm tháng, theo mùa, theo từng buổi trong ngày.....Hoặc khi tả theo không gian, các em có thể tả từ không gian rộng đến không gian hẹp, từ lớn đến bé, từ ngoài vào trong Khi dạy học sinh lập dàn ý, tôi hướng dẫn các em dựa vào dàn ý chung để xây dựng một dàn ý phù hợp với từng bài văn miêu tả cụ thể sao cho thuận lợi cho việc triển khai bài văn, thuận lợi cho việc miêu tả chi tiết tỉ mỉ và kĩ lưỡng về đối tượng miêu tả. Giải pháp 5: Rèn kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh Mục tiêu Giúp học sinh sử dụng những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá để viết bài văn miêu tả được sinh động, giàu hình ảnh, cảm xúc hơn. Nội dung, cách thức và điều kiện thực hiện giải pháp Việc học sinh biết quan sát, tìm được đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả là một bước quan trọng song chưa phải như vậy là học sinh đã tả được cảnh. Miêu tả là phải dựng được cảnh một cách sống động, chân thực, nghệ thuật. Đây là điều mà giáo viên cần phải quan tâm, tránh để cho các em quan sát được nhưng chỉ biết liệt kê sơ sài, diễn đạt lủng củng, hoặc chọn những hình ảnh so sánh đối chiếu không phù hợp như vậy để làm bài văn của học sinh có sức hấp dẫn chúng tôi nghĩ rằng không có cách nào khác ngoài việc trau dồi kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng cho mỗi học sinh. Để làm được điều này giáo viên cần tạo cho học sinh sự yêu thích sáng tạo qua việc cung cấp và phân tích một số tư liệu được giáo viên chọn lọc kỹ càng trích trong các tác phẩm của các nhà văn thông qua các giờ học tập đọc mà các tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật nhờ sự liên tưởng, tưởng tượng để tạo ra những đoạn văn hay giàu hình ảnh và cảm xúc. Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa còn có hệ thống các từ ngữ dùng để tả cảnh là các tính từ, từ láy. Bởi đây là lớp từ có giá trị gợi tả cao. Có lẽ, rèn kỹ năng diễn đạt là một phương pháp đòi hỏi kỳ công nhất, nó cần phải mất một quá trình có nhiều bước. Tôi cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức: Giáo viên đưa ra một loạt hình ảnh, yêu cầu học sinh dùng lời văn kết hợp biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, sử dụng những từ láy gợi hình, gợi âm để tập diễn đạt . Với cách làm này tôi cũng cho học sinh luyện trong các tiết học để trở thành thao tác thuần thục, nhuần nhuyễn, đồng thời cho học sinh kết hợp về tìm đọc tư liệu để mở rộng từ sao cho có những lời văn miêu tả sống động gợi cảm nhất. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng Qua một quá trình dạy học, tìm tòi sáng tạo để thực hiện từng giờ môn tập làm văn một cách bài bản, có kế hoạch. Tôi nhận được một số kết quả như sau. Tôi nhận thấy ngoài nhiệm vụ chính là biết làm một bài văn, học sinh được chủ động, tự do thể hiện cái “tôi” của mình một cách rõ ràng, biết cách bộc bạch cái riêng của mình. Dạy Tập làm văn là dạy các em tập suy nghĩ riêng, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người mình qua từng bài học cụ thể. Qua theo dõi chất lượng học sinh qua từng thời điểm về các bài kiểm tra của lớp tôi đã đạt được một số kết quả như sau: Thời điểm tổng hợp Kỹ năng quan sát tốt Viết câu văn giàu cảm xúc Thường xuyên sử dụng các biện pháp tu từ Điểm bài kiểm tra 7 đến 8 điểm 5 đến dưới 7 điểm 3 đến dưới 5 điểm Dưới 3 điểm Đầu năm 2 2 3 Giữa kì 1 4 4 6 5 8 9 10 Cuối kì 1 7 8 10 10 9 6 7 Giữa kì 2 10 12 15 12 12 5 3 Về hứng thú học tập của học sinh: Nội dung Học sinh Tỉ lệ (%) Rất hứng thú học phân môn Tập làm văn 5 15,6% Hứng thú học phân môn Tập làm văn 15 46,9% Chưa hứng thú học phân môn Tập làm văn 12 37.5% Biểu đồ so sánh về hứng thú học tập của học sinh 30 25 20 15 10 24 15 12 5 0 0 5 Rất hứng thú học phân môn Tập làm văn Hứng thú học phân môn Tập làm Chưa hứng thú học phân môn văn Tập làm văn Đầu năm Giữa kì II 8 Trong thực tế giảng dạy và trong quá trình nghiên cứu làm đề tài tôi rút ra những bài học kinh nghiệm, đó là: Qua đề tài giúp các em có một hệ thống về phương pháp làm bài cũng như vốn hiểu biết hết sức phong phú về ngôn từ phục vụ cho phân môn Tập làm văn, đặc biệt là thể loại văn miêu tả. Các em đã biết vận dụng các giác quan để quan sát đối tượng miêu tả; biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá khi viết văn. Lời văn của các em mượt mà hơn, cách liên kết các câu, đoạn trong bài cũng chặt chẽ hơn. Qua đề tài cũng khơi dậy được ở các em tính tò mò, thích khám phá, nhìn thế giới bên ngoài phong phú và đa dạng hơn. Bản thân tôi rút ra cho mình một cách nhìn rõ nét hơn, chính xác hơn về đối tượng học sinh của mình, điều này hết sức thuận lợi trong việc tổ chức hoạt động học cho học sinh. Phần kết luận, kiến nghị Kết luận: Trong dạy học, có rất nhiều biện pháp khác nhau và hiệu quả khác nhau, mỗi biện pháp đều có tính ưu việt và khả năng phù hợp với từng bài dạy, từng đối tượng học sinh. Với biện pháp tôi đã đề xuất ở trên, theo đánh giá chủ quan của mình, tôi nhận thấy chúng đều có điểm mạnh cơ bản và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau giúp học sinh biết trình bày một bài văn đủ thành phần cấu tạo đặc biệt là yêu thích môn học Tiếng Việt hơn, có kĩ năng quan sát tốt để làm văn góp phần giúp các em cảm nhận cuộc sống xung quanh trọn vẹn hơn. Kiến nghị Đối với Ban giám hiệu nhà trường. Mở các chuyên đề bồi dưỡng tập làm văn miêu tả ở khối 4, 5 để các thầy cô giáo được học tập và chia sẻ kinh nghiệm về dạy tốt phân môn Tập làm văn. Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A1 trường tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm học tốt văn miêu tả” để giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả nhằm đem lại hiệu quả cao trong học tập ở phân Tập làm văn. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý của ban giám khảo để biện pháp của tôi ngày càng được hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong những năm dạy tiếp theo. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thống Nhất, ngày 6 tháng 03 năm 2024 Người viết Nguyễn Thị Vui XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG MỤC LỤC I. Phầ n mở đầ u 1. Lý do chọ n đề tà i Trang 1-2 2. Mụ c tiêu, nhiệ m vụ củ a đề tà i Trang 2 3. Đố i tượ ng, phạ m vi nghiên cứ u Trang 2 4. Giớ i hạ n củ a đề tà i Trang 2 5. Phươ ng pháp nghiên cứ u Trang 2 -3 II. Phầ n nộ i dung 1. Cơ sở lý luậ n Trang 3-4 2. Thự c trạ ng vấ n đề nghiên cứ u Trang 4 – 5 3. Các giả i pháp, biệ n pháp Trang 5-15 4. Kế t quả thu đ ư ợ c Trang 15-17 III. Phầ n kế t luậ n và kiế n nghị 1. Kế t luậ n Trang 17 2. Kiế n nghị Trang 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5. Dạy văn miêu tả cho học sinh Tiểu học ( Hoàng Hoà Bình - Nhà xuất bản Giáo dục) Một số kinh nghiêm viết văn miêu tả ( Tô Hoài - Nhà xuất bản Giáo dục0 Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt( Lê Phương Nga Nhà xuất bản Đại học Sư phạm) 35 đề ôn luyện Tiếng Việt 4, 5 ( Tác giả Lê Phương Nga)
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5a1.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 5A1 trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm học t.pdf