Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 viết tốt bài văn tả con vật
- Một số giáo viên còn ngại khi phải dạy phân môn tập làm văn nên khi dạy
còn nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung hay hình thức tổ chức một tiết dạy Tập làm văn dẫn đến hiệu quả các tiết dạy chưa cao. Điều này được thể hiện rõ qua những tiết thao giảng, dự giờ chéo phân môn Tập làm văn ở trường.
- Phương pháp dạy của giáo viên còn rập khuôn, thiếu sự dẫn dắt gợi mở cho học sinh, chưa kích thích được sự sáng tạo tìm tòi, chưa chọn từ ngữ, hình ảnh, ý của học sinh.
- Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như thế nào để bộc lộ được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả, thoát khỏi việc tả một cách khuôn sáo.
- Giáo viên khi lên lớp còn truyền đạt “chay”, thiếu tranh ảnh, vật thật để hổ trợ cho các em trong quá trình làm văn miêu tả.
- Giáo viên chưa hướng dẫn được cho học sinh tìm ra phương pháp làm văn miêu tả thành công, bên cạnh năng lực quan sát còn cần sự liên tưởng, tưởng tượng và vận dụng năng lực của bản thân vào bài viết.
- Một số giáo viên khi lên lớp chưa phát huy hết tính tự chủ đó là chưa biết thay đổi đề bài cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình để học sinh dễ hiểu và cảm nhận một cách thực tế hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 viết tốt bài văn tả con vật

ợc cho lôgíc. Trong thực tế giảng dạy, nghiên cứu, tôi thấy những câu văn miêu tả hay là những câu sử dụng từ gợi hình ảnh, gợi tả âm thanh một cách sáng tạo, gợi tả sát thực. Để viết được những câu văn đó học sinh phải quan sát đối tượng một cách tinh tế. Vì vậy tôi rất chú ý phương pháp quan sát, luôn rèn cho các em kĩ năng quan sát cần thiết, biết chọn các chi tiết tiêu biểu để đưa vào bài văn .Khi hướng dẫn quan sát, tôi luôn gợi cho các em vận dụng vốn hiểu biết, khả năng liên tưởng cảm xúc và vốn ngôn ngữ, giúp cho việc quan sát, cảm nhận của các em được tốt hơn. Tôi còn gợi ý cho lớp cùng nhận xét, bình và chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp rồi ghi nhanh lên bảng làm cơ sở cho các em chọn lựa, vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao theo ý thích của riêng mình để thực hiện yêu cầu của bài tập. Vì vậy để viết tốt bài văn miêu tả đòi hỏi người viết phải hiểu, biết về đối tượng miêu tả. Hay nói cách khác là phải biết nhận dạng đúng và đầy đủ đối tượng mình miêu tả. Để có được điều đó thì đòi hỏi người viết phải biết cách quan sát, biết chọn lọc các chi tiết quan sát được để vận dụng làm bài. 3. Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực. Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực.(PP gợi mở, PP vấn đáp, PP thảo luận nhóm, ...) Như chúng ta đã biết qua một số kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học làm cho các em hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm điều mà chính tự suy nghĩ viết ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy, sử bản đồ tư duy huyđộng tối đa tiềm năng bộ não, giúp học sinh học tập một cách tích cực, đó chính là biện pháp đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả. Việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho các em tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách tổng thể, khoa học chứ không phải học vẹt, học thuộc lòng. Học sinh hiểu bài, nhớ lâu, vận dụng tốt. Khối lượng kiến thức ngày càng tăng theo cấp số nhân, vì vậy sử dụng bản đồ tư duy rèn cho các em tư duy lôgic để có thể vận dụng vào thực hành giao tiếp nói, viết trong cuộc sống. Đặc biệt sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới, giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ mà còn có kĩ năng diễn đạt, hệ thống hoá kiến thức hay huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi chép, vận dụng kiến thức được lọc qua sách vở vào cuộc sống. Vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc có cách nhìn vấn đề có hệ thống, khoa học. Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa ) là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ, diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cụ thể hoá tối đa hoạt động viết và nói của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của mỗi em vừa đảm bảo được chuẩn mực cơ bản cả một thể loại văn bản vừa thể hiện được bản sắc cái tôi của mỗi em, trên cơ sở khai thác kinh nghiệm và hiểu biết của các em, cũng như những ý tưởng và ngôn từ mà các em đã chiếm lĩnh được qua bài “tập đọc – kể chuyện”, “luyên từ và câu” và “Tập làm văn”. Thông qua bài học theo chủ điểm đã được học trong SGK hay qua cuộc sống hàng ngày của các em. Với vốn kiến thức các em đã được trang bị trên cơ sở khai thác kinh nghiệm và hiểu biết, cũng như những ý tưởng và ngôn từ mà các em đã chiếm lĩnh qua các tiết của phân môn Tiếng Việt hay qua cuộc sống hàng ngày, nhưng để các em biết cách vận dụng tốt vào bài viết của mình đây cũng là một vấn đề nan giải. Để giúp các em vận dụng tốt vốn kiến thức mà mình đã được trang bị thì bản thân tôi đã sử dụng cách dạy trong tiết “Viết bài văn miêu tả” là: sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực, cụ thể là: - GV giới thiệu một số dạng sơ đồ mạng: HS quan sát chọn một sơ đồ phận dụng làm bài. Hoạt động 1: Tìm hiểu đề. - Học sinh định hình cụ thể đối tượng cần miêu tả trong trí đồng thời viết đối tượng ấy( con gì /là gì?, ở đâu, lúc nào...) vào khung chủ đề. *Hoạt động 2: Tìm ý. Như chúng ta đã biết, làm văn miêu tả không phải lúc nào cũng có đối tượng trước mặt để thực hiện “ Bút cầm tay, ghi chép lại hiện trường”. Vì vậy để viết được bài văn miêu tả thì học sinh phải sử dụng hồi ức, vận dụng những hiểu biết, nhận xét cảm xúc đã có trong quá khứ về đối tượng miêu tả. Hồi ức, tưởng tượng là cách nhìn gián tiếp sự vật, là phục hồi nhìn nhận bằng cách gợi nhớ là cách nhìn “ thầm” để giúp các em làm bài vận dụng khả năng phục hồi kí ức, tưởng tượng.Trong các tiết này, tôi luôn sử dụng cách trò chuyện, khơi gợi rồi đề nghị các em nhắm mắt lại nhớ lại, nghĩ về con vật mình định tả đã xác định trong khung chủ đề và tự chọn lọc, viết ra những từ ngữ liên quan đến con vật đó. VD: HS suy nghĩ tìm được những từ, cụm từ liên quan đến chú gà: to khỏe, mào,ò ó o.., bộ lông, đuôi, oai vệ, đôi chân,...ghi vào khung chủ đề: - Bên cạch đó, giáo viên cũng cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng học hỏi thu thập thông tin từ các tài liệu tham khảo, các bài văn mẫu . Quá phụ thuộc vào bài làm của người khác là không tốt nhưng nếu biết biến lời văn của người khác thành của mình thì sẽ giúp bài biết sinh động, phong phú hơn. Phải học hỏi xem người ta trình bày bài viết như thế nào? Sử dụng từ ngữ ra sao ? Những câu văn hay, diễn tả độc đáo, các em hoàn toàn có thể ghi chép lại, hay áp dụng cấu trúc câu cho những bài làm khác. Tuy nhiên cách áp dụng phải linh hoạt. Sách tham khảo có chỗ tốt, có chỗ chưa tốt, chưa sát thực tế. Chúng ta phải làm cho nó cụ thể hơn, gần gũi hơn, không nên viết quá xa vời, sáo rỗng, có gần gũi với đời sống thì bài viết mới được đón nhận . Hoạt động 3: Lập dàn ý. Sắp xếp ý đã có vào sơ đồ. - Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được sao cho các ý đó có thể phát triển phù hợp với bố cục, nội dung bài văn miêu tả. - Gọi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự. - Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã tìm được trước lớp,để cả lớp có thể theo dõi việc làm mẫu của bạn, vài em học sinh nhận xét Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài. Hướng dẫn các em diễn đạt mỗi một từ ngữ xoay quanh mạng thành ít nhất một câu. Ví dụ: từ “Bộ lông ”. Diễn đạt thành câu: Chú khoác một bộ lông đỏ tía pha lấn màu xanh óng ánh khiến chú ta trở nên thật sang trọng, quý phái. Hay: Bộ lông của chú mượt, mịn màng và rất dày. Ở sơ đồ tư duy, cần lưu ý cho học sinh những chỗ có thể so sánh hay dùng từ ngữ độc đáo thì có thể ghi chú. Hoạt động 5: Trao đổi sửa chữa và nhận xét. Đối với học sinh lớp Bốn việc sửa chữa và tự nhận xét bài cho nhau là việc làm rất khó khăn, ít em tự thực hiện được. Việc tập cho các em biết tự kiểm tra, rà soát lại bài viết về cả nội dung và cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần thiết, nó không chỉ giúp các em nâng cao khả năng làm văn, nâng cao chất lượng câu văn, đoạn văn, bài văn của các em mà còn giúp cho các em rèn luyện kĩ năng trình bày, diễn đạt vấn đề. Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết sức chú trọng việc tập cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn cho phù hợp. Khi các em hoàn thành bài tập, tôi thường tổ chức cho các em đọc lại bài, đối chiếu với yêu cầu của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã đảm bảo chưa? Câu văn, ý văn đã rõ ràng, đủ ý chưa?...Thời gian đầu các em sẽ rất bỡ ngỡ, khó thực hiện, tôi tập cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài bài, sau đó là cùng thực hiện trong nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra, rà soát trên bài làm của mình. Ngay trong quá trình các em làm bài, tôi cũng theo dõi, giúp các em tự nhận xét, kiểm tra, điều chỉnh kịp thời những chỗ chưa hay, chưa phù hợp, tập cho các em biết chú trọng đến cách diễn đạt sao cho đúng, đủ, rõ ý. Ngoài ra, tôi còn thường xuyên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài của bạn (cách dùng từ, đặt câu, ...) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng vào bài của mình theo các bước: + Chọn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, suy nghĩ tìm ý hay, cách chỉnh sửa những ý chưa hay, chưa phù hợp. + Rút kinh nghiệm, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa bài làm của mình. Hoạt động 6: Dựa vào bài viết nháp đã sửa, học sinh viết bài vào vở cho hoàn chỉnh. Sau một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng cả sự lao động nỗ lực của thầy và sự rèn luyện chăm chỉ của trò. Chất lượng học văn của lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được những bài văn gãy gọn, mạch lạc, các em đã xây dựng được những bài văn hay, câu văn giàu hình ảnh, đạt bài khá, bài giỏi ngày càng nhiều. Tôi cũng xin đưa ra những bài văn điển hình của các học sinh lớp tôi. Bài số 1: Đề bài: Viết đoạn văn tả con vật nuôi trong gia đình? Gâu ...gâu...gâu, đó là tiếng sửa ồm ồm khi có người lạ của chó mực nhà em. Ngoài cái bụng trắng muốt, toàn thân chú đen như mực tàu. Trông chú ta mới bảnh bao làm sao với đôi tai chỉ nhỉnh hơn hai cái mộc nhĩ một chút, luôn dựng lên để nghe ngõng. Mực có một bộ răng chắc khoẻ nhọn hoắt đặc biệt bón chân chú được trang bị bộ móng vuốt và bọc một lớp nệm thịt giúp chú ta đi lại dễ dàng, không gây ra tiếng động. Khi mặt trời chiếu xuống Mực ta nhanh chóng tìm cho mình một nơi lý tưởng để sưởi ấm. Lúc đi học về khi nghe bước chân em ngoài ngõ chú ta lao ra vẫy đuôi rối rít. Đến bữa ăn em lại cho chú hai bát cơm cá đầy, chú ta nhìn em với ánh mắt biết ơn, đuôi ngoáy tít . Gia đình em rất yêu quý chú vì Mực đã bảo vệ sự bình yên cho mọi người. Bài số 2: Đề bài: Tả đàn gà mẹ và đàn gà con? Sáng sớm ông mặt trời tỉnh giấc, vươn vai, vén màn rọi những tia nắng ban mai xuống làng quê, cảnh vật thay đổi, tươi tỉnh hẳn. Chị Mái Mơ dẫn đàn con đi kiếm ăn. Đàn gà trông thật xinh xắn, chúng kêu liếp nhiếp chạy quanh chân mẹ giống như cái kén vàng ươm biết cử động. Đôi mắt chúng ngơ ngác nhìn quanh tỏ vẻ lạ lùng, giống như những em bé mới cất tiếng khóc chào đời. Đôi chân nhỏ xíu như chiếc tăm màu hồng hồng. Cái mỏ như hai vỏ trấu chắp lại nhưng em chắc rằng chúng phải cứng cáp hơn nhiều. Trông đàn gà con bé bỏng, tuổi thơ lại chợt hiện về với bao ký ức đẹp đẽ. Con gà mái mẹ thì lo lắng để mắt đến con mình. Đôi mắt ấy mới dịu dàng làm sao, nó cứ dõi theo từng bước chân của đàn con nhỏ. Chân chị bước thong thả cho đàn con kịp theo. Thấy mẹ “lục tục”, đàn con ùa về chân mẹ để được chia phần. Trên mặt chị Mái Mơ hiện rõ niềm vui. Khi mặt trời lên cao, đôi cánh của chị đủ rộng che mát cho cả đàn con của mình. Chú trống choai thấy mẹ con gà Mái Mơ đi kiếm ăn ở vườn lạ cũng đi theo. Thỉnh thoảng chú lại cất giọng gáy lanh lảnh của mình cho tất cả cùng nghe. Gió nhẹ thổi làm cỏ cây rung rinh. Trên cành cây chim hót véo von. Nhìn đàn gà con đáng yêu lòng em tràn ngập niềm vui. Em mong sao các chú gà con nhanh lớn để có thêm đàn gà con mới. Hoạt động 7: Nhận xét - tuyên dương. - Tuyên dương trước lớp đối với bài viết xuất sắc và những bài viết có tiến bộ. - Tặng bông hoa học tốt cho những bài làm hay. - Khuyến khích học sinh học tập cách diễn đạt của những bạn có bài viết tốt. - Giáo viên chỉ ra cho những em viết chưa tốt lỗi ở đâu ? Cần sửa như thế nào ? Còn thiếu yếu tố gì ? III. HIỆU QUẢ NGHIÊN CỨU: Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả giáo viên và học sinh tự tin, chủ động hơn trong các tiết học tập làm văn (văn miêu tả). Các giờ Tập làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn. Học sinh không còn lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn; việc viết một đoạn văn, hay bài văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các em đã biết miêu tả một số đặc điểm của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn đúng ngữ pháp, rõ ý; biết sử dụng những từ ngữ sát nghĩa, có tác dụng gợi tả, gợi cảm; bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn giản khi viết văn. Lời văn, ý văn của các em không còn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa, nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm văn cũng như môn Tiếng Việt đã nâng lên rõ rệt. C- KẾT LUẬN. Trong quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi đề tài ở tiết Tập làm văn miêu tả lớp 4. Bản thân tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm và khẳng định đây là hình thức dạy học làm chuyển hoá quá trình học tập của học sinh. Như vậy cần phải thực hiện một số giải pháp sau: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý: quan sát bằng nhiều giác quan: mắt, mũi, tay, tai qua đó học sinh phát hiện, khám phá đầy đủ các đặc điểm của sự vật, làm cho chúng hiện ra đầy đủ, rõ ràng tránh được những bài văn miêu tả chung chung mờ nhạt. Khi hướng dẫn học sinh quan sát cần gợi mở, dẫn dắt theo một trình tự hợp lý, để học sinh tự mình quan sát, tự mình cảm nhận tính chất muôn hình muôn vẻ của sự vật. Đây là điều kiện chủ yếu làm nền tảng giúp cho bài viết trở nên chân thật, tự nhiên và đây cũng là cơ sở cho sự phát huy trí tưởng tượng và năng lực sáng tạo của học sinh (sáng tạo trong cách nhìn, cách nghĩ, cách diễn đạt nội dung). Đặc biệt, giáo viên phải sử dụng tranh. ảnh trong văn miêu tả cụ thể, từng vùng, từng miền khác nhau mà giáo viên lựa chọn tranh ảnh cho phù hợp để cho các em quan sát tốt hơn. Tích luỹ và lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả cũng là biện pháp không kém phần quan trọng giúp cho học sinh nhớ lại một từ ngữ, một hình ảnh, biết lựa chọn từ ngữ hay, thích hợp, phong phú vào bài văn để thêm phần hấp dẫn. Bài văn miêu tả hay thì không thể thiếu cảm xúc của người viết, có thể hiện được cảm xúc trong bài văn thì mới thu hút người đọc, người nghe. Song, để quá trình đó diễn ra tốt, đòi hỏi người giáo viên phải nắm vững yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt sáng tạo trong từng tiết học với từng đối tượng được tả. Bởi vậy, dạy tập làm văn giáo viên không chỉ dựa vào sách giáo khoa mà còn cần đến những tư liệu tham khảo để mở rộng hiểu biết về nội dung phương pháp và vốn từ ngữ trong từng văn cảnh để cung cấp gợi ý cho học sinh. Có như vậy thì chất lượng giáo dục mới từng bước nâng lên. Trên đây là bài học mà bản thân tôi đã rút ra trong quá trình nghiên cứu và trải nghiệm trong các năm học bản thân tôi dạy học sinh lớp 4. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở các năm sau với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn ở tiểu học. Tuy nhiên những biện pháp tôi đã áp dụng trên, tuỳ vào đối tượng học sinh mà giáo viên cần vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo. Với kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều nên trong bài viết chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp, bổ sung của các thầy cô trong hội đồng chấm thi để đề tài ngày càng hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả hơn. Xin chân thành cảm ơn ! Người viết Nguyễn Thị Thanh Thủy
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_4_v.docx