Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và câu
Mục tiêu của môn Tiếng Việt tiểu học là giúp hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính; giúp học sinh khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú,… Trong đó, phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học là phân môn có nhiệm vụ giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ.
Trong ba nhiệm vụ cơ bản nói trên, nhiệm vụ phong phú hoá vốn từ, phát triển, mở rộng vốn từ được coi là trọng tâm. Bởi vì, đối với học sinh tiểu học, từ ngữ được cung cấp trong phân môn Luyện từ và câu giúp các em hiểu được các phát ngôn khi nghe - đọc. Ở một mức độ nào đó, phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học còn có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số khái niệm có tính chất cơ bản ban đầu về cấu tạo từ và nghĩa của từ Tiếng Việt. Các kiến thức về từ và câu lớp 4 trang bị cho học sinh thông qua hai loại bài học: bài hình thành kiến thức và bài thực hành, luyện tập. Các bài Luyện từ và câu lớp 4 cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng Việt để các em có thể chủ động, tự tin lựa chọn từ ngữ, kiểu câu trong nói và viết nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp. Thông qua việc trang bị cho học sinh những kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp, phân môn Luyện từ và câu góp phần bồi dưỡng cho các em thói quen dùng từ đúng, vận dụng các dấu câu đã được học, nói và viết thành câu theo một số mục đích nói thông thường.
Kiến thức của môn Tiếng Việt lớp 4 rất phong phú, tổng hợp kiến thức của lớp 2, lớp 3. Vậy làm thế nào để học sinh nắm chắc kiến thức, học tốt môn Tiếng Việt nói chung, trong đó có phân môn Luyện từ và câu nói riêng? Đây chính là điều mà tôi còn trăn trở.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và câu
chủ nhiệm. Đây là một nền tảng dạy học trực tuyến khá dễ dàng thao tác, thực hiện. Học sinh cũng rất hào hứng khi tham gia học tập trực tuyến. Một số hình ảnh minh họa trong giờ học với ứng dụng Zoom Thời gian đầu năm, khi ứng dụng Zoom bị quá tải dẫn đến đường truyền mạng không ổn định, tín hiệu kém, hình ảnh truyền đến học sinh bị mờ, nhòe; âm thanh ngắt quãng, tôi đã linh hoạt chuyển ngay sang dùng ứng dụng Google Meet và hướng dẫn học sinh cách vào học. Học sinh lớp tôi cũng rất nhanh nhạy với công nghệ, các em dựa vào sự hướng dẫn của tôi đã vào học được trên cả ứng dụng Zoom và Meet. Một số hình ảnh minh họa trong giờ học với ứng dụng Meet Trong quá trình học trực tuyến, có những học sinh bị thoát ra ngoài nhiều lần trong một buổi học do đường truyền mạng tại gia đình chưa ổn định. Khi gặp sự cố như vậy, hầu hết các em sẽ thấy lo lắng, đặc biệt là những em ở nhà một mình. Có em còn khóc, gọi điện thoại nhiều lần cho bố mẹ khiến bố mẹ cũng bất an với tình hình học tập trực tuyến của con em mình. Bởi vậy, ngay từ những giờ học trực tuyến đầu tiên, tôi cũng hướng dẫn học sinh khi gặp tình huống bị thoát ra như vậy, các em cứ bình tĩnh bấm vào lại phòng để tiếp tục giờ học. Nhờ sự linh hoạt trong sử dụng nền tảng dạy học trực tuyến và sự hướng dẫn kịp thời, suốt quá trình học tập trực tuyến, học sinh lớp tôi đều vào học đầy đủ, phụ huynh cũng yên tâm công tác. Không chỉ vậy, tôi cũng ứng dụng công nghệ thông tin, trò chơi học tập (Classkick, Quizizz, Padlet, Blooket, Liveworksheet, ClassDojo) trong các giờ học để kích thích sự hứng thú trong các em. Trong bài Câu kể (Tuần 16), để kiểm tra kiến thức của học sinh, tôi đã chuyển yêu cầu 1, 2 phần Nhận xét thành phiếu thảo luận nhóm 4 qua ứng dụng Classkick. Nhóm trưởng sẽ vào link tôi gửi trong phần chat, chia sẻ màn hình của ứng dụng để các thành viên trong nhóm thảo luận, thống nhất nội dung, hoàn thành phiếu. Các nhóm làm việc đến đâu, tôi kiểm soát được đến đó, nắm được nhóm nào thực hiện nhanh, nhóm nào còn lúng túng để giúp đỡ. Với ứng dụng Classkick, học sinh rất hứng thú và tôi cũng nắm sát được tình hình học và thực hiện nhiệm vụ của học sinh. Tôi cũng rất tâm đắc với công cụ chia nhóm (Break out room) trên Zoom. Học sinh sẽ không được chia phòng ngẫu nhiên mà các em được phân vào các nhóm cố định. Học sinh tự nhớ số nhóm của mình. Khi giáo viên có hiệu lệnh làm việc nhóm, trong thời gian nhanh nhất, các em tự chọn nhóm của mình. Nhóm trưởng là người chia sẻ lại phiếu thảo luận, phiếu bài tập hoặc nhiệm vụ học tập để thành viên trong nhóm quan sát, thảo luận. Thư kí của nhóm sẽ là người tổng hợp ý kiến. Nếu thiết bị của nhóm trưởng gặp trục trặc, không chia sẻ được thì các thành viên trong nhóm cũng đều có thể giúp bạn chia sẻ nhiệm vụ học tập lên cho nhóm thảo luận. Tôi thấy đây là một cách thức tổ chức giúp phát triển năng lực học sinh rất tốt. Padlet cũng là một ứng dụng học tập trực tuyến tuyệt vời mà tôi khám phá được dịp nghỉ dịch hè năm 2021. Đây là công cụ giúp tôi thu thập kết quả làm việc của học sinh. Khi dùng Padlet, tôi có nhiều lựa chọn về giao diện hiển thị. Trong các giao diện đó, tôi thích giao diện kiểu Tường hoặc kiểu Cái kệ (trình bày theo cột). Khi giao bài tập trên Padlet, tôi nêu rõ yêu cầu và cách thực hiện ngắn gọn để học sinh nắm được cách làm. Những buổi học đầu, tôi chia sẻ màn hình và hướng dẫn học sinh cách nộp bài, cách đăng ảnh, cách tra cứu các nguồn tài liệu trên internet, giúp học sinh không chỉ thực hiện được nhiệm vụ học tập mà còn nâng cao được kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin và cách tra cứu tài liệu từ nguồn tri thức vô tận – internet. Ngoài ra, để khích lệ, động viên các em trong quá trình học tập, tôi còn sử dụng ứng dụng ClassDojo để quản lý học sinh. Trong ứng dụng này, mỗi em sẽ là một chú monster đáng yêu. Các em có thể tự do lựa chọn kiểu dáng chú monster theo ý thích cá nhân. Mỗi em đều sẽ có mục điểm cộng, điểm trừ để các em thi đua với nhau. Cuối mỗi tuần, tổ trưởng sẽ thống kê số điểm các em đạt được và tiến hành bình bầu trong nhóm. Kết quả bình bầu sẽ được gửi lên cô giáo chủ nhiệm để xem xét, điều chỉnh nếu cần thiết và công bố trước lớp. Việc theo dõi thi đua trên ứng dụng này khiến các em thấy cực kì thích thú, kích thích sự phấn đấu của các em. Một số hình ảnh minh họa các ứng dụng được sử dụng trong dạy học trực tuyến Hình ảnh minh họa quản lý lớp học với ứng dụng ClassDojo Hình ảnh minh họa phiếu thảo luận nhóm bài Câu kể (Tuần 16) - Classkick Hình ảnh minh họa bài tập củng cố về Từ ghép, từ láy Hình ảnh minh họa bài tập củng cố về Từ ghép, từ láy Hình ảnh minh họa bài tập 2 – phần Luyện tập – Câu kể (Tuần 16) - Padlet Ngoài ra, với một số nội dung, tôi gửi video trước để học sinh chuẩn bị bài hoặc có đôi khi, tôi gửi sau giờ dạy để học sinh xem lại. => Như vậy, việc vận dụng linh hoạt các ứng dụng này đã thu hút học sinh hào hứng tham gia vào bài học, các em chủ động tiếp thu kiến thức, háo hức mong chờ đến giờ học. Những bài tập, kiến thức tưởng như khô khan, nặng nề giờ được các em tiếp nhận một cách nhẹ nhàng với cảm xúc vui tươi, thoải mái. Biện pháp 3: Bồi dưỡng khả năng tự học cho học sinh Trong thời gian học trực tuyến để phòng, chống dịch bệnh Covid-19, khả năng tự học của mỗi học sinh là vô cùng quan trọng và cần thiết vì hầu hết bố mẹ đi làm, ông bà ở nhà đã nhiều tuổi, khó có thể sát sao với con. Thậm chí, có gia đình bố mẹ đi làm vắng, con ở nhà tự học, tự phục vụ các nhu cầu cá nhân. Qua thời kì học trực tuyến cuối năm học 2020 – 2021, có học sinh đã hổng kiến thức. Thời gian của mỗi tiết học trực tuyến không có nhiều (35 phút/ tiết học); có những bài phải học gộp vào 1 tiết học và cũng không có thời gian củng cố kiến thức vào tiết Hướng dẫn học buổi chiều như khi học trực tiếp. Bởi vậy, học sinh cần chuẩn bị bài trước theo phiếu giao việc của giáo viên. Trong năm học này, tôi rất chú ý và dành nhiều thời gian để soạn nội dung các phiếu giao việc các bài học cho học sinh. Đây cũng là một trong những yêu cầu về chuyên môn mà lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo nơi tôi đang công tác chỉ đạo và yêu cầu các giáo viên cần thực hiện tốt để bồi dưỡng, nâng cao khả năng tự học. Nhờ có phiếu giao việc, học sinh có sự chuẩn bị trước. Khi lên lớp với thời lượng 35 phút/ tiết học, tôi có thể giải quyết lượng kiến thức của cả bài học đó. Phiếu giao việc, phiếu bài tập không chỉ giúp học sinh chuẩn bị trước bài học mà còn giúp giải quyết phần còn lại của tiết học, giúp củng cố thêm kiến thức của bài học. (Giáo viên gửi trước file word hoặc đường link Padlet, Classkick). Khi đến giờ dạy, học sinh sẽ chia sẻ bài làm của mình trước lớp hoặc giáo viên chia sẻ những nội dung học sinh đã chuẩn bị trên Padlet, Classkick. Ví dụ: Khi dạy bài Câu kể, tôi đã giao phiếu bài tập cho học sinh như sau: PHIẾU BÀI TẬP Hãy đánh dấu x vào các câu kể mà em chọn và nêu tác dụng của câu kể đó. Câu Câu kể (Đánh dấu x) Tác dụng 1. Chiều chiều, trên bãi thả, đám trẻ mục đồng chúng tôi hò hét nhau thả diều thi. 2. Cánh diều mềm mại như cánh bướm. 3. Chúng tôi vui sướng đến phát dại nhìn lên trời. 4. Tiếng sáo diều vi vu trầm bổng. 5. Sáo đơn, rồi sáo kép, sáo bè,như gọi thấp xuống những vì sao sớm. Với việc yêu cầu học sinh hoàn thành phiếu giao việc, chuẩn bị các bài học trước khi lên lớp, trong các tiết học trực tuyến, tôi có thêm thời gian để chữa bài, củng cố, chốt kiến thức cho học sinh. Đặc biệt là trong chương trình lớp 4, học sinh cần được cung cấp nhiều vốn từ. Ngay từ đầu năm học, tôi đã động viên phụ huynh mua cho các con các sách như: Từ điển Tiếng Việt cho học sinh tiểu học, Từ điển từ láy, Từ điển Chính tả, gợi ý cho học sinh một số sách văn học dành cho lứa tuổi thiếu nhi để các em đọc, có thêm kiến thức văn học, xã hội, bồi dưỡng tình yêu văn học. Ngoài ra, một số học sinh về quê mà chưa kịp mang từ điển về, tôi đã hướng dẫn cách sử dụng từ điển trực tuyến hoặc tìm hiểu các từ ngữ, hình ảnh chuẩn bị cho bài trên internet. Do vậy, học sinh lớp tôi thường được giáo viên Tin học khen là nhanh nhạy với công nghệ thông tin. Ví dụ 1: Bài Mở rộng vốn từ Nhân hậu - Đoàn kết (Tuần 2), tôi đã soạn phiếu giao việc với nội dung như sau: Bài Hướng dẫn cách làm Bài 1: Tìm các từ ngữ: a. Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm - Em hãy đọc bài Tập đọc Dế Mèn yêu thương đồng loại. bênh vực kẻ yếu, bài Chính tả Mười b. Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu năm cõng bạn đi học để tìm các từ theo thương. các yêu cầu của bài tập. c. Thể hiện tinh thần đùm bọc hoặc - Xem trích đoạn video về cảnh cứu giúp đỡ đồng loại. trợ, ủng hộ đồng bào gặp thiên tai, ủng d. Trái nghĩa với đùm bọc hoặc giúp hộ người nghèo để liên hệ tìm từ đỡ. theo yêu cầu của bài. Ví dụ 2: Bài Mở rộng vốn từ “Đồ chơi – Trò chơi” (Tuần 15), tôi đã soạn phiếu giao việc với nội dung như sau: Bài Hướng dẫn cách làm Mở rộng vốn từ “Đồ chơi – Trò chơi” (Tuần 15) Chuẩn bị một số đồ chơi yêu thích, đồ chơi hay chơi hàng ngày hoặc tìm hình ảnh, video về đồ chơi đó. Miêu tả lại đồ vật đó cùng cách chơi. Thời gian đầu, với mỗi phiếu giao việc, tôi hướng dẫn chi tiết, cụ thể cho học sinh quen với cách làm việc. Sau một thời gian áp dụng, học sinh còn chủ động hỏi tôi nội dung phiếu giao việc cho những bài học của những buổi học sau. Kết quả đạt được Sau một thời gian áp dụng những biện pháp trên vào việc giảng dạy phân môn Luyện từ và câu, điều làm cho tôi thấy vui mừng, có động lực trong công việc đó là: học sinh đón nhận tiết học rất sôi nổi, hào hứng và tự giác hoàn thành các nhiệm vụ học tập; học sinh biết cách trình bày, trao đổi, tranh luận về những vấn đề gần gũi với đời sống và phù hợp với trình độ của học sinh lớp 4; học sinh được rèn 4 kĩ năng nghe, nói, viết, đọc. Nhiều em không những nói đúng, sử dụng đúng từ ngữ trong nói và viết mà còn nói được hay hơn, vốn từ phong phú hơn. Hơn nữa các em cảm thấy yêu quý, tự hào và có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt thông qua phân môn Luyện từ và câu. Giữa tôi và học sinh có sự phối hợp nhịp nhàng, gây hứng thú cho cả giáo viên và học sinh. Giờ học sôi nổi, vui vẻ, nhẹ nhàng, không còn căng thẳng, nặng nề như trước. Chính nhờ học tốt phân môn Luyện từ và câu đã giúp cho kết quả chung của môn Tiếng Việt cũng cao hơn, cụ thể: Kết quả khảo sát về kiến thức tiếng Việt sau khi áp dụng SKKN Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 4D Thời gian khảo sát: ngày 19/4/2020 Kết quả khảo sát: STT Nội dung Học sinh nắm được kiến thức Học sinh còn chưa nắm chắc 1. Từ loại (Danh từ, Động từ, Tính từ) 91% 9% 2. Từ đơn, từ phức 89% 11% 3. Từ ghép và từ láy 89% 11% 4. Biện pháp tu từ (So sánh, Nhân hóa) 89% 11% 5. Dấu câu (Dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu gạch ngang, dấu ngoặc kép) 89% 11% 6. Câu (Câu kể (Ai là gì? Ai làm gì?Ai thế nào?), Câu hỏi, Câu cảm, Câu khiến) 89% 11% 7. Thành phần câu (Chủ ngữ, Vị ngữ, Trạng ngữ) 87% 13% 8. Mở rộng vốn từ theo chủ điểm đã học 89% 11% Bảng so sánh số liệu trước và sau khi thực hiện các giải pháp của SKKN Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 4D Thời gian khảo sát: ngày 19/4/2020 Kết quả khảo sát: STT Nội dung Trước khi thực hiện các giải pháp của SKKN Sau khi thực hiện các giải pháp của SKKN Học sinh nắm được kiến thức Học sinh còn chưa nắm chắc Học sinh nắm được kiến thức Học sinh còn chưa nắm chắc 1. Từ loại (Danh từ, Động từ, Tính từ) 81% 19% 91% 9% 2. Từ đơn, từ phức 89% 11% 3. Từ ghép và từ láy 89% 11% 4. Biện pháp tu từ (So sánh, Nhân hóa) 77% 23% 89% 11% 5. Dấu câu (Dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu gạch ngang, dấu ngoặc kép) 79% 21% 89% 11% 6. Câu (Câu kể (Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào?), Câu hỏi, Câu cảm, Câu khiến) 74% 26% 89% 11% 7. Thành phần câu (Chủ ngữ, Vị ngữ, Trạng ngữ) 72% 28% 87% 13% 8. Mở rộng vốn từ theo chủ điểm đã học 77% 23% 89% 11% PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Kết luận Để nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt, trước hết mỗi giáo viên không được xem nhẹ một phân môn nào trong môn Tiếng Việt hay một mảng kiến thức nào. Chủ động lập kế hoạch giảng dạy chú ý phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để thu hút học sinh chủ động nắm kiến thức. Người giáo viên cần có lòng yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với nghề. Phải luôn nghiêm túc thực hiện giảng dạy theo nguyên tắc từ đơn giản đến phức tạp, quan tâm bồi dưỡng tất cả các đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, mỗi giáo viên cần không ngừng học tập nâng cao trình độ kiến thức, tích lũy kinh nghiệm, tổ chức các hình thức dạy học phong phú, linh hoạt, khéo léo, đổi mới phương pháp dạy học, luôn giữ vai trò dẫn dắt, tổ chức, hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động một cách hiệu quả, coi học sinh là trung tâm giờ học, tạo không khí học tập nhẹ nhàng, sôi nổi mà hiệu quả, học hỏi đồng nghiệp, tích cực tìm tòi cái mới áp dụng vào dạy học nhằm đạt kết quả cao nhất. Khuyến nghị Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo Tiếp tục tổ chức các chuyên đề về phát huy năng lực của học sinh đáp ứng theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 để giáo viên có điều kiện học hỏi đồng nghiệp, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cũng như chất lượng giảng dạy. Đối với phụ huynh học sinh Phụ huynh cần phối kết hợp chặt chẽ với nhà trường, các thầy cô giáo đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm lớp để phát huy các năng lực và phẩm chất của học sinh nhằm giúp các em học tốt phân môn Luyện từ và câu, học tốt môn Tiếng Việt và hoàn thành chương trình Tiểu học. Đối với giáo viên Mỗi giáo viên cần tự trau dồi, tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng kiến thức, tìm hiểu và ứng dụng công nghệ thông tin, trò chơi học tập để mỗi tiết học đều trở nên cuốn hút, hiệu quả hơn. Đây là những kinh nghiệm mà tôi đã rút ra được sau một năm sử dụng các biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và câu. Rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để sáng kiến của tôi thật sự có giá trị, có hiệu quả và được áp dụng rộng rãi. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2021 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết Nguyễn Thị Thu Phương TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật giáo dục số 43/2019/QH14 ngày 14/6/2019 Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 (tập 1, tập 2) – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 4 (tập 1, tập 2) – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học lớp 4 - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam 2009 Tiếng Việt 4 nâng cao – GS. TS. Lê Phương Nga - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Vở bài tập nâng cao Từ và Câu lớp 4 – GS. TS. Lê Phương Nga, TS. Lê Hữu Tỉnh – Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hướng dẫn dạy học môn Tiếng Việt theo Chương trình Giáo dục phổ thông mới Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học II – Lê Phương Nga – Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hỏi đáp về Chương trình Giáo dục phổ thông – GS. TS Nguyễn Minh Thuyết– Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hỏi - đáp về dạy học phát triển năng lực học sinh tiểu học – Nguyễn Hữu Hợp – Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Tạp chí Giáo dục Tiểu học Tạp chí Thế giới trong ta Một số tài liệu khác
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_4_h.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4 học tốt phân môn Luyện từ và câu.pdf

