Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4, 5 viết tốt bài văn miêu tả

Thực trạng

a. Về giáo viên

– Một số giáo viên cảm thấy khó khăn khi dạy dạng bài văn miêu tả. Bản thân giáo viên cũng chưa thực sự biết hướng dẫn như thế nào để học sinh có thể viết được một bài văn miêu tả tốt. Việc dạy văn của một số cô giáo còn sơ sài, chưa chú trọng, khi giảng còn mang tính chung chung, chưa cụ thể, chưa hướng dẫn các em quan sát.

b. Về phía học sinh

– Một số em học sinh tỏ ra không hứng thú, ngại học văn.

– Một số em chưa biết cách quan sát đối tượng miêu tả, chưa biết quan sát theo thứ tự như thế nào, bộ phận nào quan sát trước, bộ phận nào quan sát sau,…

– Một số em chưa biết lựa chọn và sử dụng các từ ngữ thích hợp trong khi làm văn., viết văn còn sáo rỗng, sử dụng nhiều hình ảnh kệch cỡm khi nói về các sự vật.

– Vẫn còn nhiều em quá lạm dụng vào văn mẫu.

docx 12 trang Thu Nga 18/09/2025 60
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4, 5 viết tốt bài văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4, 5 viết tốt bài văn miêu tả

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4, 5 viết tốt bài văn miêu tả
bỗng có tiếng trẻ khóc thét lên thì hai anh tuần mới ..ra  chỗ người trốn.
Cuộc .dù riết đến đâu cùng không sao. đủ một trăm người đi xem đá bóng.
Ở dạng bài này, cần hướng dẫn học sinh nắm nghĩa cụ thể của từng từ.
Tróc: bắt hoặc lấy bằng được bằng sức mạnh.
Săn: lùng bắt, tìm kiếm
Lùng: tìm kiếm cho kì được bằng mọi cách , ở khắp mọi nơi.
Sục: xông vào bất cứ đâu, bất cứ chỗ nào cảm thây khả nghi để tìm kiếm.
Tìm: cố làm sao cho thấy được.
Khám phá: Tìm thấy, phát hiện ra ẩn dấu, bí mật
Lưu ý: Ở bài tập này, đề bài cho 6 từ nhưng chỉ có 5 chỗ để điền vào. Như vậy có một chỗ để điền hai từ.
Sau khi tìm khắp gian ngoài và buồng trong không thấy một ai, họ xuống bếp chọc tay thước vào cột gio và bồ trấu. Rồi họ sục ra mé sau nhà. cũng vô hiệu. Nhưng bỗng có tiếng trẻ khóc thét lên thì hai anh tuần mới  khám phá ra chỗ người trốn.
Cuộc săn, lùng dù riết đến đâu cũng không sao tróc đủ một trăm người đi xem đá bóng.
Bài tập dạng 5: Phân biệt từ nhiều nghĩa với từ đồng âm.
Ví dụ: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là từ nhiều nghĩa?
Chín:  – Lúa ngoài  đồng đã chín vàng .
– Tổ em có chín học sinh.
– Nghĩ cho chín rồi hãy nói.
Lưu ý: ở dạng này, giáo viên cần cho học sinh nắm vững nghĩa gốc của từ in đậm, sau đó xác định nghĩa gốc trong các câu. Khi xác định được nghĩa gốc, học sinh sẽ xác định nghĩa chuyển bằng cách dựa vào mối liên hệ về nghĩa, sau đó sẽ chỉ ra được từ đồng âm. Tôi tin chắc rằng qua việc làm các dạng bài tập khác nhau,  học sinh sẽ nắm vững cáchsử dụng từ ngữ trong khi viết văn. Khi học sinh đã hiểu và sử dụng thành thạo các từ ngữ  thì đó chính là phương tiện chắc chắn nhất để viết tốt văn miêu tả.
Thứ tư: Hướng dẫn học sinh sử dụng các biện pháp tu từ trong văn miêu tả.
Văn miêu tả là một thể loại văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, nó giúp học sinh hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng đánh giá, nhận xét. Qua các bài văn miêu tả giúp ta có thể cảm nhận văn học và cuộc sống một cách tinh tế, sâu sắc hơn, làm cho tâm hồn, trí tuệ của chúng ta thêm phong phú. Những văn bản có tác dụng to lớn như vậy môt phần là nhờ sự có mặt của những biện pháp tu từ. Vậy biện pháp tu từ là gì? Biện pháp tu từ  là những cách phối hợp sử dụng khéo léo các đơn vị từ vựng có khả năng đem lại hiệu quả tu từ do mối quan hệ qua lại giữa các đơn vị từ vựng trong ngữ cảnh rộng. Việc đưa các biện pháp tu từ vào văn miêu tả có vai trò cực kì quan trọng bởi nó không những giúp người học biết cách sử dụng ngôn từ có hiệu quả cao mà nó còn giúp người học cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong văn bản nghệ thuật và ham muốn tạo ra cái hay, cái đẹp bằng ngôn từ.
Trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học, học sinh chỉ được cung cấp các biện pháp tu từ: so sánh và nhân hoá. Hai biện pháp tu từ này cũng được sử dụng nhiều nhất trong văn miêu tả.
Trước hết ta hiểu khái niệm về so sánh, nhân hoá như sau:
So sánh: So sánh là đối chiếu hai sự vật, hiện tượng cùng có một dấu hiệu chung nào đó với nhau góp phần làm cho sự vật, hiện tượng được miêu tả trở nên phong phú, sinh động, cụ thể và rõ ràng hơn.
Nhân hóa : Nhân hoá là cách gọi hoặc tả đồ vật, loài vật, cây cối bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người (hoặc nói cách khác là gắn cho những hoạt động đồ vật, loài vật, cây cối tình cảm, trạng thái như con người).
– Nghệ thuật  nhân hoá giúp cho thế giới loài vật, đồ vật, cây cối trở nên gần gũi, sinh động, hấp dẫn, biểu thị được những tình cảm, suy nghĩ của con người.
Các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá là thế mạnh đặc trưng, là phương tiện miêu tả hữu hiệu. So sánh là biện pháp nghệ thuật tạo hình khiến sự vật được so sánh trở nên đẹp đẽ, sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn và gợi liên tưởng cho người đọc . So sánh có giá trị gợi âm thanh, hình ảnh. Sử dụng so sánh trong bài văn  miêu tả còn là cách thức làm đẹp ngôn từ. Còn nhân hoá là biện pháp miêu tả sinh động, hấp dẫn, lí thú các sự vật, hiện tượng, làm cho những đối tượng này không phải là người nhưng lại mang dấu hiệu thuộc tính của con người. Nhân hoá là con đường thú vị nhất, ngắn nhất đưa những vấn đề trừu tượng đến với nhận thức của con người. Khi sử dụng nhân hoá, người viết thả sức vùng vẫy, lựa chọn ngôn từ để làm tăng sự uyển chuyển, mềm mại khi diễn đạt.
Trong quá trình giảng dạy của mình, tôi đã hướng dẫn để học sinh hiểu, thấm nhuần được về các biện pháp tu từ trên bằng cách học sinh làm những bài tập liên quan:
Ví dụ 1: Trong câu văn sau, những sự vật nào được nhân hoá: “ Từ đó, lão Miệng, bác Tai, cậu Chân, cậu Tay lại sống thân mật với nhau, mỗi người một việc không ai tị ai cả” (miệng, chân, tay, tai được nhân hoá)
Ví dụ 2: Viết lại câu văn sau cho sinh động bằng cách sử dụng biện pháp so sánh:
Cây phượng vĩ ở cổng trường đã nở hoa.
Viết lại: Cây phượng vĩ ở cổng trường đã nở hoa đỏ như một bó đuốc khổng lồ.
Mùa đông, cây bàng trơ trọi những cành khẳng khiu.
Viết lại: Mùa đông, cây bàng trơ trọi những cành khẳng khiu như những cánh tay gầy guộc đang gồng mình chịu rét.
Ví dụ 3: Tập viết đoạn văn có sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh hoặc nhân hoá.
Mùa đông lá bàng bắt đầu chuyển màu. Ban đầu, nó ngả sang màu vàng rồi vàng đậm, sau đó sang màu đỏ và cuối  cùng chuyển sang màu đỏ đồng. Cuối mùa đông cây bàng trút hết lá để lại các cành trơ trụi, khẳng khiu lúc này trông nó giống như một bà cụ 90 tuổi.
Thực tế cho thấy khả năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá để viết văn miêu tả của học sinh Tiểu học hết sức hạn chế. Các bài văn của học sinh thường ít sử dụng các biện pháp so sánh và nhân hoá, nếu có thì cũng chưa hay, chưa sinh động vì vậy các bài văn của các em thường khô khan, câu văn thiếu hình ảnh, đơn điệu, chỉ mang tính liệt kê, mô tả. Chính vì vậy mà tôi thấy  việc hướng dẫn học sinh Tiểu học sử dụng hai biện pháp tu từ so sánh và nhân hoá vào văn miêu tả là rất cần thiết.
Thứ năm: Giúp cho học sinh yêu các sự vật mình tả.
Bất kì ai dù ở cương vị nào, muốn làm việc có hiệu quả có chất lượng, muốn có sự sáng tạo thì người đó phải yêu, phải có trách nhiệm với công việc mình làm. Với các em cũng vậy, để một bài văn của mình viết ra có hồn, để  khác các bài văn khác (như tôi vẫn thường nói với các học sinh của mình: Bài văn của các em hay hơn các bài văn mẫu vì nó là của riêng các em, bài của em này sẽ khác với bài của em khác) thì các em phải có tình cảm, tình yêu đối với sự vật mình sẽ tả. Nhưng không  phải bất kì một người nào khi nhìn vào con vật, sự vật, hay con người đều có tình cảm với nó , đặc biệt là với học sinh Tiểu học. Chính vì vậy bản thân người giáo viên phải định hướng để học sinh có thể nhận  ra được nét đáng yêu của sự vật, con vật, thậm chí là con người, từ đó nảy sinh tình cảm với các sự vật, con vật, dần dần các em yêu bằng một tình cảm tự nhiên, ngây thơ của mình.
Nói như vậy cũng có nghĩa là người giáo viên có vai trò cực kì quan trọng trong việc định hướng hình thành cho HS tình yêu với sự vật. Vậy người giáo viên phải làm gì? Theo tôi, có thể làm như sau:
Ví dụ: Khi dạy đến bài tả các con vật Tiếng Việt 4, giáo viên hướng dẫn, giới thiệu học sinh làm quen với các con vật bằng nhiều cách khác nhau.
Thứ nhất: Hướng dẫn học sinh quan sát trực tiếp ở nhà, quan sát ở lớp (giáo viên chuấn bị thông qua các clip được trình chiếu, các hình ảnh thu thập được, )
Thứ hai: Giáo viên giúp học sinh nhận ra điểm đáng yêu của các con vật thông qua quan sát, tưởng tượng, nhớ lại, để trả lời các câu hỏi của giáo viên.
VD: Tả con chó nuôi ở nhà:
Về hình dáng, kích thước: To bằng chừng nào? Giống cái gì? Đôi mắt như thế nào? Bộ lông ra sao? Sờ vào em có cảm giác ra sao?
Về hoạt động: Những khi em đùa với nó, thái độ của nó thế nào? Nó đã làm gì mỗi khi em vuốt ve, âu yếm nó? Mỗi khi em đi học về, nó đã làm gì? Những con động tác mà con chó thể hiện chứng tỏ tình cảm của nó đối với em thế nào? Vậy con chó đó có giống người bạn của em không?
Thứ ba: Cho học sinh đối thoại trước lớp: Kể cho các bạn nghe về con vật mình yêu thích, nói lên tình cảm của mình dành cho các con vật đó. Một khi học sinh đã hình thành được tình yêu đối với các sự vật mình sẽ tả thì đó chính là điều tuyệt vời nhất  mà một người giáo viên đã làm được cho các học sinh thân yêu của mình.
Thứ sáu: Tạo hứng thú, thói quen đọc sách cho các em.
Sách là vốn quý của con người. Đọc sách đem lại cho người ta một lượng trithức khổng lồ của nhân loại mà ít ai ngờ tới được. Quả không sai khi người ta đã từng nói “Sách vừa là bạn vừa là thầy”. Cả đất nước chúng ta đang dậy lên một phong trào đọc sách rất mạnh mẽ ở mọi tầng lớp, lứa tuổi. Các trường học trong cả nước cũng hưởng ứng phong trào này. Đọc sách giúp các em học sinh làm giàu thêm vốn ngôn ngữ, cách diễn đạt, hành văn trong sáng, vậy nhưng việc lựa chọn loại sách như thế nào cho phù hợp và cách đọc sách ra sao cho hiệu quả thì đó đang là cả một vấn đề đặc biệt là với lứa tuổi học sinh Tiểu học.
Trên thị trường hiện nay có vô số loại sách đang muốn thu hút các loại đối tượng học sinh. Tuy nhiên đặc biệt là với học sinh Tiểu học, không phải tất cả các loại sách đều có giá trị tốt đối với các em, mà  bản thân các em chưa thể có khó năng lựa chọn được đúng loại sách cần cho mình, chính vì vậy các em rất cần sự tư vấn ở những người tiền bối của mình – giáo viên là một trong những người mà các em tin cậy nhất, Vi vậy, cần phải hướng các em tìm các loại sách phù hợp với lứa tuổi và giúp các em có thể củng cố, mở rộng thêm ngôn từ của mình, mở rộng thêm hiểu biết của mình. Ví dụ : các em cần đọc những loại truyện cổ tích Việt Nam, truyện cổ Grim, truyện An-dec-xen, Truyện Ngụ ngôn, đọc một số tác phẩm của các nhà văn viết về tuổi thơ như nhà văn Tô Hoài,  nhà  thơ Trần Đăng Khoa, các tạp chí Tuổi thơ với trang Văn học, tạp chí Báo Nhi đồng, Chăm học
Khi đã chọn được sách, học sinh cần đọc như thế nào cho đúng.Trong ba, bốn năm trở lại đây, học sinh đã thói quen đọc sách và nhiều em đọc sách có hiệu quả. Tuy nhiên, để hình thành được thói quen này, giáo viên cần giao việc cho các em. Ví dụ : Trong một tiết đọc sách thư viện, GV cần phải yêu cầu: Các em chọn cho mình câu chuyện, sau đó đọc nó và trả lời các câu hỏi (câu hỏi có thể được nâng cao dần lên):
– Câu chuyện em đọc có tên là gì ? Của tác giả nào ?
– Nói về ai ?
– Em hãy kể lại tóm tắt nội dung câu chuyện
– Câu chuyện muốn nói điều gì ?
Nếu muốn biết được học sinh đã đọc câu chuyện với thái độ như thế nào thì giáo viên cần phải kiểm soát được phần trả lời câu hỏi của. Những tiết đầu, khi tổ chức giới thiệu, chia sẻ sách, giáo viên phải luôn chủ động tướng tác với các em,  có thể tự mình kiểm tra các em, nhưng khi đã dần dần hình thành được ở các em cách đọc thì GV yêu cầu các nhóm trưởng kiểm tra. Sau đó điều chỉnh ở những em chưa thực hiện được hay những em chưa có ý thức đọc. Muốn thức hiện được điều này yêu cầu người giáo viên phải chịu khó, không chủ quan và phải làm gương, tự xây dựng thói quen đọc sách để học sinh noi theo. Khi các em đã đọc nhiều thì tự nhiên nhu cầu đọc sách sẽ đến với các em, lúc đó các em sẽ biết tự đi tìm những cuốn sách mà các em thích đọc. Giáo viên cũng nên khuyến khích ngoài các tiết đọc sách ở trường, các em đọc thêm sách ở nhà và đến lớp kể lại cho các bạn nghe vào tiết tự học hay tiết hoạt động tập thể, tiết giới thiệu, chia sẻ sách khen ngợi và tuyên dương những em đó, dần dần phong trào sẽ được lan rộng và chắc chắn có hiệu quả. Từ đấy, ngôn ngữ giao tiếp, vốn từ của các em dần trở nên phong phú, việc vận dụng các từ ngữ vào văn miêu tả sẽ sống động, giàu hình ảnh hơn.
Thứ bảy: Thực hiện có hiệu quả tiết trả bài Tập làm văn.
Khi HS đã hoàn chỉnh được bài văn của mình, giáo viên cần phải hoàn thiện tiết trả bài thật chu đáo. Ở các trường Tiểu học hiện nay, một số giáo viên thường xem nhẹ tiết trả bài vì nghĩ rằng nó không quan trọng, việc trả bài là một mắt xích  không thể thiếu trong một chuỗi việc làm giúp các em viết tốt văn miêu tả. Bởi khi chấm bài, giáo viên đã biết được các em đã tiếp nhận được những gì và cần phải khắc phục chỗ nào, cần chú ý những đối tượng nào còn chưa thực hiện được yêu cầu,
Theo tôi, khi thực hiện tiết trả bài GV chia làm 4 phần chính :
Phần 1 : Chữa lỗi chưa viết đúng cấu tạo của bài văn miêu tả.
Giáo viên chấm bài là, trong bài làm cần nhận xét đầy đủ theo hướng dẫn của văn bản hợp nhất 03. Sau đó GV phân loại bài có lỗi sai giống nhau để khi chữa bài lưu ý những em hay sai lỗi này. Với lỗi sai về cấu tạo bài văn miêu tả :
+ Bước 1 : GV cho HS xem lại cấu tạo của bài văn miêu tả (được trình chiếu ở trên bảng)
+ Bước 2 : Yêu cầu HS so sánh, đối chiếu bài làm của mình đã viết đúng cấu tạo của bài văn miêu tả hay chưa. Nếu chưa thì mính cần phải bổ sung phần gì ?
+Bước 3 : GV chú ý đến những em chưa viết đúng phần này và hướng dẫn cách viết đúng, yêu cầu làm lại và nộp vào hôm sau (thực hiện đến khi HS được viết đúng)
Phần hai : Chữa lỗi đặt câu
Với lỗi này, học sinh thường viết chưa đúng câu do đặt dấu câu chưa chính xác, đặt câu thiếu các thành phần chủ ngữ hoặc vị ngữ.
Bước 1: GV cho HS tự phát hiện xem mình có mắc lỗi này hay không (HS sẽ biết vì GV đã nhận xét ở trong bài làm của mình), sau đó yêu cầu các em sửa lại lỗi sai.
Bước 2 : Gv chữa lỗi sai cơ bản của một số bạn lên trên bảng.
VD : Cây bàng như một chiếc ô khổng lồ. Dang rộng che nắng cho chúng em.
Ở câu này các em đã sử dụng sai dấu câu, dẫn đến vế câu thứ hai chưa có chủ ngữ, mà ý của câu 1 và câu 2 liên kết với nhau vì vậy chúng ta chỉ cần đưa dấu chấm đặt ở cuối câu : Cây bàng như một chiếc ô khổng lồ dang rộng che nắng cho chúng em.
Bước 3 : Yêu cầu những bạn đã sửa sai đọc kết quả.
Phần ba : Chữa lỗi dùng từ.
Lỗi dùng từ là lỗi học sinh thường hay gặp, lỗi này tuy nhẹ hơn hai lỗi trên nhưng nếu như trong một bài văn sai nhiều lỗi này thì bài văn trở nên lố bịch. Nguyên nhân của việc sai lỗi này là học sinh chưa nắm được cách dùng từ, hoặc các em chưa hình dung đúng sự vật mình đang tả. Vì vậy, giáo viên phải lưu ý và yêu cầu  những em đã dùng sai từ tự sữa lại theo hướng dẫn.
Phần tư : Tuyên dương những bài viết đúng cấu tạo bài văn và viết hay, đọc các bài viết đó trước lớp.
Việc tuyên dương những bài viết hay trước lớp rất có ý nghĩa với các em. Những em được được bài văn của mình trước lớp sẽ cảm thấy rất tự hào và nỗ lực hơn nữa ở các bài sau còn những em chưa được khen thì các em sẽ nghe bài của bạn và  học hỏi được rất nhiều từ bài viết của các bạn.
III. Kết luận
Dạy tốt văn miêu tả cho học sinh lớp 4,5 không chỉ giúp các em viết văn miêu tả tốt mà còn có tạo hứng thú học tốt môn Tiếng Việt. Ngoài ra còn tạo cho các em có quan hệ giao lưu rộng hơn, hiểu biết phong phú đặc biệt ở lứa tuổi này, mỗi trẻ em đều có khả năng tri giác đa dạng hơn.Vì vậy đời sống tình cảm của các em rất phát triển. Những hiểu biết mới trong học tập mà các em lĩnh hội được thường làm cho các em hưng phấn. Các em yêu cái đẹp trong thiên nhiên, yêu cỏ cây hoa lá, yêu động vật nuôi trong nhà, yêu thích hội hoạ, âm nhạc,.Đặc biệt khi biết viết văn miêu tả tốt sẽ giúp các em phát triển tốt về ngôn ngữ nói và viết.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_4_5.docx