Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4, 5 học tốt văn miêu tả theo hướng phát triển năng lực

- Nội dung dạy học Tập làm văn lớp 5chương trình chương trình GDPT 2000 tập trung chủ yếu vào dạy cấu tạo bài văn, dựng đoạn, viết bài, chưa chú trọng đến việc cung cấp vốn sống và bồi dưỡng cảm xúc cho học sinh về đối tượng miêu tả.

- Giáo viên chủ yếu chú trọng dạy lý thuyết, chưa chú ý đến việc rèn kỹ năng, đặc biệt là các buổi quan sát thực tế. Việc học thường được diễn ra theo một quy trình: Thầy giảng – trò nghe rồi bắt chước làm theo.

- Bên cạnh đó, việc học chỉ diến ra trong phạm vi không gian lớp học, thiếu những buổi thâm nhập vào thực tế, trải nghiệm nên các em chỉ được quan sát bằng hình thức tưởng tượng lại bài học. Đó cũng là một hạn chế khi làm bài, hạn chế khả năng và trí tưởng tượng phong phú của học sinh. Vì thế:

- Nhiều em chưa có kĩ năng quan sát, chưa biết quan sát sự vật bằng nhiều giác quan mà chủ yếu quan sát bằng mắt, từ đó chưa cảm nhận được cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc độc đáo của sự vật, hiện tượng.

- Bài văn viết dưới dạng kể chưa có từ ngữ miêu tả. Đặc biệt các em dùng từ lặp nhiều, chủ yếu là liệt kê các bộ phận của sự vật, chưa diễn đạt được vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về đối tượng cần tả. Diễn đạt câu còn lủng củng.

- Sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ, các từ ngữ gợi tả, gợi cảm còn mờ nhạt. Bởi vậy bài văn thường khô khan, ít cảm xúc.

doc 15 trang Thu Nga 01/10/2025 350
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4, 5 học tốt văn miêu tả theo hướng phát triển năng lực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4, 5 học tốt văn miêu tả theo hướng phát triển năng lực

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4, 5 học tốt văn miêu tả theo hướng phát triển năng lực
tiết Luyện từ và câu, đặc biệt là các kiểu bài:“Mở rộng vốn từ ”. Trong kiểu bài này giáo viên cần chú ý xây dựng vốn từ ngữ cho học sinh. Ngoài những từ ngữ vốn có trong sách giáo khoa, các em có thể tự bổ sung một số từ ngữ khác dựa vào sự hiểu biết của riêng mình về các chủ đề đã học. Khi giảng dạy Luyện từ và câu tôi thường dùng các phương pháp quy nạp, diễn dịch, đặc biệt là phương pháp quy nạp. Từ ngữ, các đơn vị lời nói nằm trong vốn ngôn ngữ tiếng Việt mà học sinh đưa ra, giáo viên có thể giúp học sinh quy nạp kiến thức, phân loại nó thành mô hình (mẫu). Các em có thể đặt lại câu theo mẫu đó với việc sử dụng nhiều từ gợi tả âm thanh và gợi tả hình ảnh khác nhau.
Để giúp học sinh tăng thêm vốn từ ngữ giúp viết văn miêu tả được hay, có hình ảnh, khi dạy các tiết bổ trợ tôi đã sử dụng các biện pháp sau:
* . Sưu tầm những đoạn văn miêu tả hay, cho học sinh đọc và yêu cầu học sinh thống kê những từ gợi tả âm thanh, hình ảnh, những từ gợi tả, gợi cảm trong đoạn văn đó.
Mục đích của kiểu bài này không chỉ đơn thuần yêu cầu các em học sinh xác định được từ gợi tả âm thanh, hình ảnh trong đoạn văn mà còn giúp các em học tập được cách miêu tả và sử dụng từ ngữ trong văn miêu tả. Ở bài tập này, hầu hết các em phát hiện được các từ gợi tả âm thanh, hình ảnh . Trên cơ sở đó tôi phân tích để học sinh thấy rõ tác dụng của việc sử dụng các từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh trong bài tập đó.
Tiếp theo bài tập ấy tôi đưa ra một bài tập khác nhằm kiểm tra việc nắm bắt những điều mà tôi vừa phân tích và giảng giải ở trên xem khả năng hiểu bài của các em đến đâu.
Ví dụ: Cô có một loạt các từ gợi tả âm thanh, hình ảnh sau: phành phạch, lanh lảnh, rì rầm, lanh canh, í ới Hãy viết một đoạn văn ngắn miêu tả cảnh thôn xóm nơi em ở vào buổi sáng khi mọi người thức dậy đi làm.
Với bài tập này giúp các em phát huy được óc sáng tạo, trí tưởng tượng của mình.
* Ra các bài tập yêu cầu học sinh vận dụng linh hoạt các từ gợi tả, gợi cảm các biện pháp tu từ trong văn miêu tả.
Ở đây học sinh cần phải nắm được nghĩa các từ đã cho từ đó mới có thể tìm được từ thay thế để được các câu văn có hình ảnh và sinh động hơn. Sau đây là một số ví dụ minh họa.
Ví dụ: Cho các từ ngữ sau: Nhấp nhô, xanh biêng biếc, tấp nập, tung tăng.Em hãy lựa chon các từ đó thay thế cho các từ in nghiêng trong các câu văn sau để được các câu văn cụ thể, sinh động hơn ( dành cho HS trung bình, yếu)
Mùa thu, con sông quê tôi nước rất xanh.
Những cánh cò trắng muốt bay trên cánh đồng lúa chín.
Xa xa, những ngọn núi cao thấp, vài ngôi nhà thấp thoáng.
Bên cạnh các dạng bài tập trên để giúp học sinh cảm nhận được cái hay cái đẹp của thơ văn từ đó biết vận dụng vào bài văn của mình tôi đã hướng dẫn các em một số dạng bài tập có tính chất phát hiện cái hay cái đẹp của văn thơ. Các dạng bài tập này chủ yếu dành cho những em học sinh có chút năng khiếu văn, yêu thích học văn.
5.2. Rèn luyện kỹ năng viết lời văn giàu cảm xúc phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại miêu tả cảnh:
Bài văn hay không thể thiếu cảm xúc của người viết. Cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà còn cần thể hiện trong từng câu, từng đoạn của bài văn.Vì vậy GV thường xuyên nhắc nhở các em viết lời văn miêu tả cần phải chân thực, giàu hình ảnh và giàu cảm xúc. Muốn làm được điều đó các em cần huy động vốn từ ngữ gợi cảm, gợi tả ( từ láy, từ ghép, nhiều động từ, tính từ các loại) và sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá...Vấn đề này giáo viên cần gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài.
VD: Hướng dẫn HS viết câu chân thực, giàu cảm xúc:
- Nhìn thấy cánh đồng lúa chín vàng trải rộng mênh mông bát ngát em thấy lòng mình như thế nào? ( Em vui lắm vì người dân quê mình sắp có một vụ mùa bội thu, no đủ).
Tương tự như vậy yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc, nhận xét một cảnh, một hiện tượng lạ mắt khác để bài văn của các em tránh được nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc mà tạo được ấn tượng và cảm xúc cho người đọc. Nên yêu cầu học sinh có sổ tay văn học để nghi lại những ý văn hay, những câu văn đầy hình ảnh...để trau dồi kiến thức vốn ngôn ngữ cho bản thân khi viết văn.
6. Giải pháp 6. Rèn kỹ năng phát hiện lỗi sai và tự sửa lỗi sai thông qua tiết Trả bài.
Một vấn đề không kém phần quan trọng trong tập làm văn cũng như thể loại văn tả cảnh là khi học sinh đã hoàn thiện xong đoạn, bài văn của mình, giáo viên tích cực hướng dẫn HS tự kiểm tra, đối chiếu bài bạn phát hiện lỗi sai sửa cho bạn về cách dùng từ, viết câu, lỗi chính tả...để rút kinh nghiệm bản thân. Ngoài những lỗi về bố cục, lỗi chính tả học sinh hay mắc lỗi về diễn đạt, lỗi về câu. Có thể nói lỗi câu là lỗi phổ biến của học sinh. Trong các tiết trả bài hoặc chấm chữa, giáo viên cần chỉ rõ những lỗi của học sinh về câu. Lỗi về câu của học sinh rất đa dạng:
* Bước chuẩn bị của giáo viên.
- Bước chuẩn bị của giáo viên là rất quan trọng. Muốn tiết trả bài đạt hiệu quả tốt người giáo viên phải chấm bài làm văn của học sinh thật kỹ, cẩn thận nhằm phát hiện những ưu điểm, nhược điểm của bài văn sau đó ghi theo trình tự sau để làm cơ sở cho việc chữa bài và giáo viên cần có sổ ghi lỗi mắc phải của học sinh.
* Bài văn của em nào diễn đạt trôi chảy, mạch lạc, biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật miêu tả so sánh nhân hoá... Bài văn nào có câu văn hay, ý hay, dùng từ sáng tạo, hình ảnh bố cục chặt chẽ 
* Ghi những lỗi phổ biến các em thường mắc phải như: chính tả, dùng từ chưa chính xác, câu văn chưa hoàn chỉnh, thiếu hoặc thừa thành phần chủ - vị, chưa rõ nghĩa, lặp từ, lặp ý hoặc thừa thành phần không cần thiết.
* Ghi ra một số bài tiêu biểu nhất của lớp để đọc cho các em nghe và tham khảo, học tập.
+ Quá trình thực hiện tiết dạy.
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại đề và giúp học sinh xác định lại trọng tâm của đề.
- Đánh giá nhận xét chung ưu khuyết điểm của bài làm lần này.	Trả bài cho học sinh trước khi chữa lỗi.
+ Chữa lỗi sai :
Đây là khâu quan trọng hàng đầu của tiết dạy, học sinh có thể nhận được cái sai, cái chưa được, có tìm được cách sửa chữa lỗi hợp lý không. Giáo viên có thể thống kê những lỗi sai phổ biến sau:
a. Chữa lỗi về chính tả: Giáo viên ghi các lỗi chính tả mà học sinh hay mắc yêu cầu học sinh đọc lại sau đó tự sửa lỗi. Lỗi chính tả là lỗi học sinh hay mắc nhất trong một bài làm văn. Từ chỗ sai chính tả đẫn đến sai ý của câu, sai nghĩa của từ mà các em sử dụng trong bài văn.
b. Chữa lỗi về dùng từ : Giáo viên ghi câu văn học sinh dùng từ thiếu chính xác. Học sinh đọc câu văn và nhận xét rồi cho các em sửa.
 c.Lỗi sắp xếp ý trong đoạn văn( bài văn) lộn xộn, không hợp lí.
Ví dụ, theo trình tự miêu tả cảnh là miêu tả từ xa đến gần( hoặc từ gần đến xa), từ trên xuống dưới, từ bao quát đến chi tiết,... nhưng học sinh lại không theo trình tự trên sẽ dẫn đến người đọc không hình dung được cảnh miêu tả. Vì vậy, giáo viên phải hướng dẫn học sinh miêu tả theo trình tự, tránh xếp ý lộn xộn thì bài văn sẽ không hay.
 d. Lỗi về câu và diễn đạt không toát ý.
Ở đây, học sinh sẽ phổ biến là viết câu sai ngữ pháp, diễn đạt cả đoạn văn không toát ý. Với lỗi này, giáo viên sẽ dùng những câu hỏi gợi mở để giúp các em sửa câu( câu phải đủ 2 thành phần chính là CN và VN) và hướng dẫn diễn đạt lại vấn đề cho mạch lạc, rõ ràng và tiến tới hay, sinh động.
7. Giải pháp 7: Phát động phong trào đọc sách để mở rộng vốn từ
Nhà văn M.Gorki đã nói: “Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà mỗi khi bước lên, tôi tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất”. Sách là người bạn quý của mỗi con người. Ngay từ bé, nếu trẻ nhỏ được khơi gợi niềm yêu thích đọc sách, thì khi lớn lên việc đọc sách không còn là một việc “phải làm” mà đã trở nên một thói quen hay nói đúng hơn là một niềm “đam mê”. Nhờ đó, vốn từ vựng của học sinh cũng ngày một tăng lên theo năm tháng. Sách không chỉ giúp các em nâng cao nhận thức, hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại mà còn hình thành ở các em những kỹ năng cần thiết cho tương lai.
Những tiết sinh hoạt cuối tuần, hoạt động sau giờ học, tôi lại tổ chức cho HS chia sẻ nội dung những câu chuyện, bài thơ hay,...mà em đã đọc trong sách để hình thành cho các em thói quen đọc sách và tiếp thu cái hay cái đẹp mà sách mang lại. Cho nên để tạo thói quen và rèn luyện ý thức đọc sách cho học sinh, nhà trường đã triển khai xây dựng thư viện xanh và tôi cũng có một tủ sách trong lớp học để các em có thể tranh thủ đọc được.
III. 2. Tính mới, tính sáng tạo:
*Tính mới:
- Với các giải pháp nêu trên, GV và HS dễ dàng áp dụng vào dạy và học các bài văn miêu tả theo hướng phát triển năng lực học sinh.
 - HS được thực hành, luyện tập, tự khám phá và lĩnh hội kiến thức một cách chủ động mà không bị gò bó hay dập khuôn theo một khuôn mẫu nào cả.
 - Việc học không chỉ diễn ra trong phạm vi không gian lớp học mà các em được trải nghiệm, được tận mắt quan sát đối tượng miêu tả và tái hiện bằng ngôn ngữ, cảm xúc của chính bản thân mình vì thế các giờ học sẽ trở nên nhẹ nhàng. Giáo viên chỉ là người định hướng, hướng dẫn các em cách quan sát và thể hiện lại đối tượng bằng cảm nhận của bản thân mình. Các em thực sự được sáng tạo theo khả năng và trí tưởng tượng của mình. Và cứ như vậy, vốn từ ngữ của học sinh dần được nâng lên, khả năng miêu tả tốt hơn, sáng tạo hơn, thể hiện rõ cái tôi của mình trong mỗi bài văn.
 - Bên cạnh đó việc lập dàn ý bài văn miêu tả bằng cách sử dụng sơ đồ tư duy giúp tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Sử dụng sơ đồ tư duy trong khâu lập dàn ý giúp học sinh tìm tòi và khắc sâu kiến thức thông qua suy nghĩ và hoạt động tích cực. Các em không bị ép học thuộc lòng và tái hiện nguyên văn nội dung ghi nhớ, Ngược lại các em chủ động tìm ra kiến thức và tái hiện lại trên giao diện mở của sơ đồ tư duy. Như vậy việc ghi nhớ, trình bày, sắp xếp ý được mạch lạc, rõ ràng, phát huy năng lực của từng học sinh.
*Tính sáng tạo:
Đổi mới PP dạy học phân môn TLV theo hướng tiếp cận năng lực giúp HS không phải  học thuộc văn, ghi nhớ  văn mẫu mà phải biết tự viết, tự sáng tạo thông qua các hoạt động cụ thể, biết sử dụng những tri thức học được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Giúp HS tiếp cận nội dung chủ yếu yêu cầu HS trả lời câu hỏi: Biết cái gì? Vì chương trình tiếp cận năng lực luôn đặt ra câu hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết cho nên so với thiết kế truyền thống, thiết kế chương trình theo hướng tiếp cận năng lực có sự khác biệt. Thiết kế truyền thống thường bắt đầu từ mục tiêu giáo dục sau đó xác định các lĩnh vực/môn học, chuẩn kiến thức và kĩ năng, phương pháp dạy học và cuối cùng là đánh giá. Thiết kế chương trình theo năng lực trước hết cần xác định các năng lực chung cần trang bị và phát triển cho HS.
III.3. Phạm vi ảnh hưởng, khả năng áp dụng của sáng kiến:
Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học và công nghệ AI - công nghệ trí tuệ nhân tạo, điện thoại thông minh và mạng internet đã tác động sâu sắc đến cuộc sống của con người. Cùng với những giá trị vượt trội mà chúng đem lại những trải nghiệm của con người về tự nhiên xã hội và thế giới xung quanh ngày càng hạn chế. Hơn lúc nào hết, giai đoạn hiện nay, vốn hiểu biết và cảm xúc của HS với con người, sự vật, hiện tượng xung quanh ngày một nghèo nàn. Đó chính là rào cản lớn nhất cho học sinh khi học tạo lập văn bản - kĩ năng vô cùng quan trọng và cần thiết ở mọi thời đại. Vì vậy, thu thập vốn sống, bồi dưỡng cảm xúc về đối tượng miêu tả thông qua các hoạt động trải nghiệm là một trong những giải pháp tối ưu hỗ trợ GV tổ chức tốt quá trình viết văn. Viết tốt các em không chỉ được trang bị một công cụ cho quá trình học tập lâu dài mà còn được bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách, hướng tới đáp ứng yêu cầu về con người mới trong giai đoạn hiện nay.
Mặt khác, để chuẩn bị cho học sinh học lên trung học cơ sở, mục tiêu trọng tâm trong dạy học Tiếng Việt ở cấp tiểu học là phát triển kỹ năng, trong đó, điểm nhấn là kỹ năng viết. Phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp nhằm rèn luyện kỹ năng tạo văn bản nói và viết cho học sinh. Với hướng dạy này có thể áp dụng trong dạy văn miêu tả nói riêng và dạy các phân môn khác nói chung. Các giải pháp mà tôi đưa ra áp dụng trong dạy văn miêu tả cho HS lớp 4,5 nói riêng và là nền tảng các em học tiếp lên lớp trên. Các thầy cô trong huyện và trên thành phố ai cũng có thể áp dụng các giải pháp này đặc biệt với chương trình GDPT 2018. Chính vì vậy mà tôi đã mạnh dạn áp dụng vào giảng dạy cho HS lớp 4,5 để tiếp cận dần với CTGDPT 2018.
III.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp.
Sau một thời gian giảng dạy lớp 4, 5, khi làm bài kiểm tra định kì cuối HKI môn Tiếng Việt lớp 5 với đề bài tập làm văn “ Hãy tả lại người mẹ thân yêu của em với tình cảm của một người con hiếu thảo.” và lớp 4 đề bài” Tả lại một con vật em yêu quý”. Chúng tôi nhận thấy bài làm của học sinh rất đa dạng, giàu cảm xúc và hình ảnh. Từ chỗ bài làm của học sinh hình ảnh còn nghèo nàn, có chỗ từ ngữ sử dụng chưa chính xác, diễn đạt chưa toát ý, bố cục không rõ ràng, câu văn thiếu sinh động thì ở bài băn này các em viết rất tốt. Mỗi bài văn là một bức họa rõ nét bằng ngôn ngữ về hình ảnh người mẹ của mình. Bài văn mang cái tôi, cái riêng của mỗi bạn chứ không sáo rỗng. Đặc biệt các em phát triển ý rất đa dạng, miêu tả chân thật, câu văn giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc một cách tự nhiên chân thật. Kết quả thu được như sau:
Lớp 5D
ĐIỂM
TRƯỚC KHI VẬN DỤNG BIỆN PHÁP
SAU KHI VẬN DỤNG
BIỆN PHÁP
Số bài
Tỉ lệ (%)
Số bài
Tỉ lệ (%)
Điểm 9,10
5
12,9
18
46,2
Điểm 7,8
17
43,6
19
48,7
Điểm 5,6
15
38,4
2
5,1
Điểm dưới 5
2
5,1
0

Lớp 4D
ĐIỂM
TRƯỚC KHI VẬN DỤNG BIỆN PHÁP
SAU KHI VẬN DỤNG
BIỆN PHÁP
Số bài
Tỉ lệ (%)
Số bài
Tỉ lệ (%)
Điểm 9,10
7
18,4
19
50
Điểm 7,8
17
44,7
18
47,3
Điểm 5,6
12
31,6
1
2,7
Điểm dưới 5
2
5,3
0

- Làm thay đổi nhận thức từ giáo viên đến phụ huynh và học sinh về cách dạy theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh.
- Khẳng định tính đúng đắn, khoa học và thực thi đã mang lại những chuyển biến rõ rệt trong công tác giảng dạy của giáo viên và học sinh trong nhà trường.
- Việc dạy học văn theo hướng tiếp cận năng lực còn giúp học sinh và giáo viên tiếp cận chương trình GDPT 2018, đáp ứng được các yêu cầu cần đạt của giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Bồi dưỡng cho các em khả năng cảm thụ văn học, cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống xung quanh, tích cực tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm, tăng hiệu quả giao tiếp, giúp các em vững vàng, tự tin trong đời sống.
Trên đây là một sáng kiến nhỏ mà chúng tôi đã áp dụng để giúp học sinh lớp 4,5 thích học và học tốt môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riếng. Do không có nhiều thời gian nghiên cứu và trình độ, kinh nghiệm còn hạn chế nên những vấn đề nêu trên không khỏi có những sai sót. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý chân thành của Ban giám hiệu nhà trường, Hội đồng thẩm định sáng kiến, các bạn đồng nghiệp để tôi có thể rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học ngày càng tốt hơn./.
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn!
CƠ QUAN ĐƠN VỊ Vĩnh Bảo , ngày 28 tháng 12 năm 2023 ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Tác giả sáng kiến
Phạm Thị Minh Hương Trần Thị Thu Thủy

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_4_5.doc