Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Viết Lớp 2
Các lĩnh vực ngôn ngữ như ngôn ngữ học, ngữ pháp học, phong cách học đều có những đóng góp về mặt lý luận để các nhà khoa học giáo dục biên soạn chương trình học Tiếng Việt cho từng cấp học. Ở phân môn chính tả, các lĩnh vực của ngôn ngữ học đều có sự đóng góp để hình thành cơ sở khoa học. Chẳng hạn như ngữ pháp văn bản giúp cho việc xác định rõ nghĩa của từ trong văn bản, xác định rõ các âm tiết của từ đó mà viết đúng chính tả. Riêng lĩnh vực ngữ âm học là cơ sở lý luận gắn bó mật thiết với vấn đề chính tả.
Chữ viết của tiếng Việt là chữ viết ghi âm cho nên nguyên tắc chính tả tiếng Việt chủ yếu là nguyên tắc ngữ âm học. Ngoài ra, chính tả tiếng Việt còn được xây dựng trên một số nguyên tắc nữa như nguyên tắc truyền thống lịch sử, nguyên tắc khu biệt,…. Những nguyên tắc này có lúc không đồng nhất với nguyên tắc ngữ âm học, do vậy chính tả tiếng Việt cũng còn có những trường hợp bất nhất. Cụ thể trong tiếng Việt cách phát âm ở những vùng miền có khác nhau ( phương ngữ ). Bên cạnh đó lại có trường hợp từ mang hai biến thể phát âm, khó có thể nói biến âm nào là chuẩn.
Ví dụ: Chòng chành - tròng trành ; lỡ làng - nhỡ nhàng ; …
Lăm le - nhăm nhe ; sum sê - xum xuê ; ….
Hoặc có khi một cách phát âm nhưng lại có hai cách viết.
i: trong lí luận, mĩ thuật, …
Trước những bất minh trên, việc xác định trọng điểm chính tả cần cho dạy học sinh vùng phương ngữ, một mặt phải coi trọng hệ thống âm chuẩn toàn dân, mặt khác phải tham khảo biến thể phát âm địa phương, đồng thời phải dùng nghĩa để sử dụng dựa vào các văn cảnh.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Viết Lớp 2

học sinh 3. 2.1. Tăng cường việc tri giác chữ viết bằng thị giác cho học sinh Muốn ngăn ngừa lỗi chính tả cho học sinh tôi giúp các em ghi nhớ chữ viết gắn liền với nghĩa của từ: Từ có vấn đề chính tả, cách tốt nhất là cung cấp cho học sinh từ trong ngữ cảnh. Mỗi tiết học có thể cung cấp cho học sinh nhiều từ trong một hoặc nhiều ngữ cảnh. Ngữ cảnh có ý nghĩa đặc biệt, giúp học sinh nắm được nghĩa của từ dễ dàng, nhẹ nhàng làm điểm tựa cho trí nhớ. Khi cần sử dụng từ, nếu còn phân vân về chữ viết, các em sẽ liên tưởng đến ngữ cảnh và suy luận ra cách viết chữ. Trong một tiết dạy chính tả tôi tạo điều kiện cho học sinh trở đi trở lại với từ cần ghi nhớ nhiều lần. Lần 1: Vào bài học tôi yêu cầu học sinh đọc thầm bằng mắt, ngữ cảnh để hiểu nghĩa từ và nhớ ngữ cảnh. Lần 2: Tôi yêu cầu học sinh lựa chọn các từ trong ngữ cảnh vừa cung cấp để điền vào một ngữ cảnh khác Lần 3: Tôi cho học sinh đặt câu với từ vừa học, tìm từ láy, từ ghép với tiếng có vấn đề chính tả Chưa kể việc học sinh thực hiện bài tập về nhà và kiểm tra bài cũ ở buổi học sau. Trong một tiết, học sinh đã được mắt nhìn tay viết chữ có vấn đề chính tả nhiều lần. Ví dụ: Bài viết “Cái trống trường em”(Tiếng Việt 2 – tập 1) Chọn s hoặc x thay cho ô vuông Học sinh điền: xanh, sáng b. Chọn dấu hỏi hoặc dấu ngã: Học sinh chọn: của, những, cửa, mở, mỗi Những thao tác trên tôi đã cho các em thực hiện điền từ, đặt câu, tạo từ đều được thực hiện bằng mắt và tay giảm nói và đọc 3.2.2. Tăng cường thao tác phân tích chữ viết ở học sinh Lỗi chính tả có thể xảy ra ở âm và vần trong tiếng việt. Vì vậy, tôi cho học sinh phân tích chữ viết để có tác dụng ghi nhớ chữ viết, khắc sâu cách viết đi liền với nghĩa từ mà nó biểu đạt. Việc phân tích chữ viết này là phải để cho học sinh làm. Khi tiến hành phân tích chữ viết tôi buộc học sinh phải quan sát chữ viết một cách tường tận buộc học sinh phải viết ra chữ, thao tác nhiều, chữ và nghĩa sẽ gắn chặt vào trí nhớ, chắc chắn lỗi viết của học sinh sẽ giảm. Tôi đưa ra một biểu bảng giáo viên làm mẫu một từ, còn lại tôi lần lượt cho học sinh trung bình yếu làm tiếp. Với phương pháp này, tôi yêu cầu mỗi học sinh tự tìm từ khó rồi phân tích theo mẫu cho sẵn. Như vậy mỗi học sinh có thể tự tìm và phân tích được nhiều từ Ví dụ: Dạy bài “ Bạn của Nai Nhỏ ” Từ hoặc cụm từ Chữ Phụ âm đầu vần Dấu thanh cánh diều cánh diều c d anh iêu sắc huyền 3.2.3. Tăng cường yêu cầu học sinh tự chữa lỗi chính tả Khi chấm bài viết, tôi chỉ cho học sinh thấy lỗi mà mình thường mắc. Tôi yêu cầu những em thường mắc lỗi chính tả trả lời câu hỏi: - Trong bài chính tả vừa qua em thường mắc các lỗi nào? - Những lỗi đó ở bộ phận nào của tiếng? - Khi học sinh đã có biết được lỗi của mình thường mắc, nếu gặp những chữ có “vấn đề chính tả” của mình thì các em sẽ thận trọng hơn khi viết chữ. Trong lúc soát lại bài viết, tôi đưa ra mẫu đúng, yêu cầu học sinh phân tích chữ viết các em sẽ thấy được lỗi của mình và tự viết lại các lỗ sai vào một quyển vở sửa lỗi. Tôi kiểm tra việc chữa lỗi của học sinh. Qua đó hình thành bản năng tự kiểm tra soát lỗi và có ý thức tự sửa. Giáo viên có thể cho học sinh phát hiện các lỗi chính tả qua các dạng bài tập khác nhau. Ví dụ: Chép một đoạn bài có viết sai chính tả, yêu cầu học sinh viết lại cho đúng. Từ các cách nêu trên giúp học sinh quen dần với cách phát hiện ra lỗi và tự sửa lỗi, dần dần học sinh sẽ nhớ cách viết đúng, thấy được các từ sai để tránh. 3.3. Tạo hứng thú học tập cho học sinh Trong giờ học chính tả, để học sinh hứng thú học tập khi học sinh phát biểu đúng, làm đúng các bài tập khó, tôi cần động viên, khuyến khích khen thưởng kịp thời. Phần luyện tập trong viết chính tả cũng rất quan trọng, để học sinh làm tốt phần luyện tập tôi cần sử dụng những phương pháp dạy học thích hợp gây hứng thú học tập cho học sinh. Tuỳ theo nội dung phần bài tập, tôi có thể cho học sinh làm việc cá nhân, theo cặp nhóm (tổ) nhằm tránh sự nhàm chán cho học sinh khi học phân môn chính tả. Ví dụ: Cuối tiết học tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: thi tìm nhanh các từ láy âm đầu l Tôi hướng dẫn học sinh chơi trò chơi tiếp sức, trước tiên học sinh nêu yêu cầu bài tập, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bải tập. Sau đó, tôi chia lớp thành 3 dãy (mỗi dãy chọn ra 5 em). Tôi chia bảng làm 3 cột, mời 3 dãy thi đua lên bảng tìm và viết đúng những từ mà các em đã chọn. Mỗi em viết một từ rồi chuyền phấn cho bạn. Hết thời gian qui định, các nhóm ngừng viết. - Cả lớp cùng nhận xét, tuyên dương dãy làm đúng và nhanh. Tạo hứng thú học tập cho học sinh nhằm giúp học sinh ham thích học chính tả, học sinh không những đọc đúng, viết đúng chính tả và còn mở rộng được một số từ ngữ, mở rộng hiểu biết về cuộc sống. 3.4. Thống nhất giữa học sinh với giáo viên trong cách đọc, cách phát âm; Rèn chính tả qua các môn học khác 3.4.1 Thống nhất giữa giáo viên và học sinh trong cách đọc và cách phát âm. Trong tiết viết, ngoài các cách ghi nhớ bằng nghĩa từ, từ trong ngữ cảnh mà cách đọc của giáo viên cũng là một phần rất quan trọng. Do đó tôi thống nhất với học sinh để phân biệt và nhận biết các từ có phụ âm đầu là ch/ tr, x/s, r/d/gi hoặc những tiếng có thanh hỏi và thanh ngã. Ví dụ: Ch: đọc bình thường Tr: đọc đưa lưỡi lên vòm miệng X: đọc bình thường S: đọc cong lưỡi lên R: đọc cong lưỡi lên D: đọc bình thường Gi: đọc xì hơi ra Bên cạnh việc thống nhất cách đọc với học sinh tôi còn kết hợp cho học sinh thực hành với bài tập rèn luyện kĩ năng viết chính tả để học sinh lĩnh hội ngay và ghi nhớ. Khi học sinh điền xong, tôi yêu cầu học sinh phát âm đúng như hướng thống nhất. Ví dụ: Điền vào chỗ trống s hoặc x: ( sa, xa)? .....xôi, ....xuống (sá,xá)? Phố ....,đường.... Điền r/ d/gi vào chỗ trống: - Hôm nay là ngày ...ỗ cụ tổ năm đời của thần, nhưng thần không có mặt ở nhà để cúng ...ỗ - Dạo này công việcồnập quá - Dừng cóạiột nghe theo những lời đồn nhãm Với phương pháp dạy viết này, học sinh lĩnh hội chính xác, phát âm đúng và nhớ lâu hơn. 3.4.2. Học sinh viết đúng chính tả qua các môn học khác Đọc đúng sẽ giúp học sinh viết đúng chính tả. Chính vì vậy, để khắc phục tình trạng học sinh viết sai chình tả, người giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng, đúng chuẩn, đồng thời cần hướng dẫn học sinh phát âm chuẩn để phân biệt các thanh, âm đàu, âm cuối qua các môn, phân môn khác như: tập đọc, tập làm văn, luyện từ và câu, toán, đạo đức Tôi rèn luyện cho học sinh học tốt ở phân môn Tập đọc, tập trung sửa sai các âm,vần khó hoặc dễ lẫn lộn do cách phát âm của địa phương. Ví dụ: ch/tr, s/x, l/n, r/d/gi Trong Tiếng Việt phân môn Tập đọc tạo nền móng vững chắc cho phân môn chính tả. Ngoài ra khi dạy phân môn Tập làm văn tiết tả bài viết, tôi cũng cần hướng dẫn cho các em soát lỗi, chữa từ, câu rất tỉ mỉ để các em thấy được chỗ sai, rút kinh nghiệm và có hướng viết chính tả tốt hơn. 3.5. Sử dụng các mẹo luật, quy tắc chính tả. Đối với học sinh tiểu học phương án này tương đối có hiệu quả nhất, bởi vì tư duy “máy móc”, trí nhớ “máy móc” của các em chiếm ưu thế là thích ứng cho việc xây dựng các mẹo luật vừa dễ nhớ vừa áp dụng lúc viết. - Khi dạy bài chính tả phân biệt c/k/q, g/gh, gh/ngh. Học sinh tự tìm ra các từ có âm đầu là c/k/q, g/gh, gh/ngh, từ các ví dụ cụ thể mà học sinh nắm lại các quy tắc chính tả. Chữ cái c: Luôn đứng trước các vần bắt đàu bằng các nguyên âm: a, ă, o, ô, u, ư... Ví dụ: Cần cù, cặm cụi, cũng... Chữ cái k: Luôn đứng trước các vần bắt đàu bằng các nguyên âm: e, ê, i... Ví dụ: kính, kể, kèo... Chữ cái q: Luôn kết hợp với u tạo thành qu ( đọc là quờ ). Qu luôn đứng trước hầu hết các nguyên âm ( trừ các nguyên âm o, u, ư ). Ví dụ: Quan trọng, quanh quẩn Chữ ng, g: Ghép được o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư và không ghép được e, ê, i (không có nghĩa) Ví dụ: ngơ ngác, ngủ. Chữ ngh, gh: Chỉ ghép được nguyên âm e, ê, i. Ví dụ: nghỉ ngơi, ghi nhớ. - Khi dạy bài chính tả phân biệt dấu thanh Chúng ta cần cung cấp cho học sinh quy luật trầm bổng: hệ bổng gồm các thanh: ngang, hỏi, sắc; hệ trầm gồm các thanh: huyền, nặng, ngã. Sử dụng mẹo luật, quy tắc chính tả là giúp các em khi gặp các từ viết trên các em nhớ ngay ra chữ viết, không còn lúng túng phân vân khi viết chính tả. 3.6. Tổ chức cho học sinh học theo tổ - nhóm - Giáo viên cần tổ chức cho học sinh học theo tổ nhóm hoặc phân thành “đôi bạn cùng tiến” học tập để các em hướng dẫn lẫn nhau (giáo viên luôn nhắc nhở và kiểm tra các em đều phải có một quyển vở một quyển vở chính tả). Ví dụ: Mỗi tuần ngày thứ ba có tiết chính tả thì ngày thứ sáu tuần trước các nhóm học tập hoặc đôi bạn học tập sẽ đọc trước phần viết đúng rồi đọc toàn bài viết. Qua đó học sinh đọc để hiểu được nội dung của bài và nghĩa của từ cần nhớ. - Học sinh sau khi nắm được nội dung bài và các từ cần nhớ, các em lấy “quyển vở rèn chính tả” ra viết vào, tiếp theo là đổi bài kiểm tra lẫn nhau. Vậy trong một bài các em đã được mắt nhìn và tay viết từ khó rất nhiều lần, từ đó hạn chế được các lỗi sai ở học sinh 3.7. Kết hợp với phụ huynh học sinh và các lực lượng khác - Ngay từ đầu năm học, khi nhận lớp, tôi cần tìm hiểu chất lượng học chính tả của từng em để tôi định hướng giúp đỡ, uốn nắn cho những em viết yếu theo yêu cầu riêng , để trao đổi tìm hướng giúp em học tốt hơn - Còn đối với các em lười học tập, tôi luôn kiểm tra, uốn nắn hàng ngày, thường xuyên phụ đạo đúng theo lịch quy định một tuần 2 buổi, củng cố lại kiến thức, luật chính tả để giúp các em học tốt hơn. Ngoài ra tôi còn kết hợp Ban giám hiệu và tổng phụ trách để nhắc nhở những em lười học nhằm giúp các em học tốt hơn. 4. Kết quả đạt được Trong quá trình giảng dạy, với việc áp dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy học sinh có những tiến bộ rõ rệt trong việc nắm bắt các quy luật chính tả, đặc biệt là các tiếng có phụ âm đầu là l/n, gi/r/d, tr/ch, s/x và thanh hỏi, thanh ngã so với đầu năm tỉ lệ viết đúng đạt trên 90%. Ngồi ra, các em còn thể hiện sự viết đúng, viết đẹp trong bài chính tả nói riêng và các bài tập của môn học khác nói chung. Trong tiết chính tả, không khí học tập trở nên hào hứng, sôi nổi, các em học sinh không còn rụt rè, e ngại mà có sự tự tin, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài. Kết quả này được thể hiện rõ ràng trong các đợt kiểm tra định kì môn chính tả trong lớp tôi giảng dạy trong học kì 1 như sau: ( minh chứng kèm theo trang 19 ) PHẦN 3: PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Năm nay học sinh lớp 2 được học chương trình sách giáo khoa mới và cũng là năm dịch bệnh covid-19 kéo dài nên các con phải học trực tuyến ở nhà nên việc rèn chữ cho các em cũng khó khăn với giáo viên. Nhưng qua một thời gian áp dụng, tôi thấy học sinh lớp tôi có chuyển biến rõ rệt về chữ viết. Các em viết nắn nót , cẩn thận đã thành thói quen. Các em luôn tự giác trong học tập. Sách vở luôn giữ sạch đẹp. Bản thân tôi khi dạy cũng thấy hứng thú, say sưa nâng cao chất lượng giờ dạy tốt hơn. 2. Kiến nghị 2.1. Đối với Ban giám hiệu: - Tiếp tục đẩy mạnh công tác bồi dưỡng chuyên môn cho tất cả cán bộ, giáo viên, tổ chức chuyên đề cấp trường, phối hợp với trường bạn để tổ chức tốt chuyên đề cấp cụm trường cùng nhau trao đổi, thảo luận, đưa ra những khó khăn cùng tháo gỡ và cùng thống nhất cách thực hiện có hiệu quả. - Chỉ đạo giáo viên nắm chắc các nguyên tắc quy định cũng như các thông tư mới như: Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh, coi trọng việc động viên, khuyến khích tính tích cực vượt khó trong học tập, rèn luyện của học sinh; Đánh giá toàn diện học sinh thông qua đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh theo mục tiêu giáo dục tiểu học. - Mỗi cán bộ quản lý, giáo viên tiếp tục phải nghiên cứu kỹ các thông tư, quyết định của cấp trên bằng sự trải nghiệm thực tế của mình, phân tích, so sánh giữa cách đánh giá cho điểm trước đây, với đánh giá cho điểm định kỳ kết hợp với đánh giá thường xuyên, để hiểu sâu sắc ý nghĩa, tính ưu việt của sự thay đổi. Bởi việc gì có lợi cho học trò, sẽ được sự ủng hộ của phụ huynh học sinh và xã hội. Ban đầu triển khai không tránh khỏi khó khăn, nhưng khó khăn mà giúp học sinh tiến bộ, có hứng thú học tập, học tốt hơn, thì khó mấy cũng quyết tâm làm...". Việc chuyển đổi ban đầu hơi khó khăn nhưng dần sẽ quen và thấy được hiệu quả của nó. 2.2. Đối với phụ huynh: - Quan tâm đến việc học tập của con em, thường xuyên kiểm tra sách vở, đốc thúc, quản lí việc học ở nhà. - Đối với các phụ huynh phải cần quan tâm hơn nữa con em mình cả về mặt tình cảm củng như vật chất, phải quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, phải thật sự là tấm gương mẫu mực cho con em mình. - Trao đổi thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn về việc học tập, rèn luyện của con em mình. Đồng thời, thông báo những biểu hiện thường xuyên cũng như bất thường của con mình với giáo viên để có những bước đi đúng hướng trong công tác giáo dục. - BCH hội Cha mẹ học sinh chú ý đến học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, học sinh khuyết tật, khen thưởng kịp thời. Tôi tin rằng với thực tế lớp học của mình, với những sáng tạo riêng, mỗi thầy cô sẽ lên kế hoạch phù hợp và sáng kiến kinh nghiệm thực sự đem lại hiệu quả cho hoạt động của lớp mình góp phần nâng cao chất lượng của việc dạy và học trong nhà trường. Trên đây là sáng kiến mà tôi đã vận dụng các biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn chính tả mà tôi đã mạnh dạn áp dụng vào trong quá trình giảng dạy trên lớp của mình. Với kết quả nghiên cứu của mình, tôi chỉ xin nêu một vài kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi đã tích lũy được, một số bài học thực tiễn mong muốn chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để việc giảng dạy phân môn chính tả trong nhà trường ngày càng nâng cao chất lượng giúp học sinh học tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Dương Liễu , ngày 18 tháng 4 năm 2022 Người thực hiện Nguyễn Thị Minh Lợi TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách dạy tập viết ở tiểu học 2. Tiếng việt thực hành của Nguyễn Minh Thuyết – Nguyễn Văn Hiệp 3. Để học tốt phân môn dạy chính tả ở tiểu học. 4. Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở tiểu học 5. Sách giáo khoa Tiếng việt 2 - Tập 1+2 6. Sách giáo viên Tiếng việt 2 -Tập 1+2 7. Sách bài tập Tiếng việt 2 - Tập 1+2 8. Làm thế nào để viết đúng chính tả của Cao Xuân Hạo 9. Một số vấn đề cơ bản của chương trình tiểu học mới – Nhà xuất bản Giáo dục 2002 10. Chính tả cho nhiều từ dễ viết sai của Nguyễn Như Ý. 11. Dạy học chính tả ở tiểu học của Hoàng Văn Thung và Đỗ Xuân Thảo 12. Phương pháp dạy học môn chính tả ở tiểu học. 13. Chuyên đề Giáo dục tiểu học 14. Lê Trung Hoa, mẹo luật chính tả, NXB trẻ 15. Nguyễn Đức Dương, Vấn đề sửa lỗi chính tả cho học sinh phổ thông. 16. Phan Ngọc, chữa lỗi chính tả cho học sinh (in lần thứ hai), NXB Giáo dục, . PHỤ LỤC MINH CHỨNG 1. Thực trạng đầu năm Đầu năm học Lớp 2D SS HS HTT HT CCG SL % SL % SL % 34 7 20,0% 25 71,5% 2 7,5% 2. Kết quả sau khi thực hiện đề tài Thời gian kiểm tra SS HS HTT HT CCG SL % SL % SL % Đầu năm học 34 7 20,0% 25 71,5% 2 7,5% Cuối học kì I 34 12 34,8% 22 65,2% 0 0 Cuối năm học
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot.doc