Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt 1 theo chương trình GDPT 2018
Thực trạng về chất lượng đầu năm khi nhận lớp
Sĩ số lớp: 45. Nam: 23 em. Nữ: 22 em.
a) Thuận lợi:
- Tỉ lệ nam nữ cân bằng sẽ có nhiều thuận lợi hơn về mặt nề nếp cũng như phong trào học tập của các em.
- Các em đã hoàn thành chương trình lớp mầm non 5 tuổi nên đa số có sự chuẩn bị rất tốt về mặt nhận thức.
- Nhiều em có nhận thức nhanh, tự giác trong học tập.
b) Khó khăn:
- Một số em còn chưa nhớ mặt chữ cái và mặt số.
- Một số em còn coi nhẹ việc học, còn tư tưởng của bậc học mầm non. Không thích đi học, chỉ thích chơi.
- Một số em có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt, không được bố mẹ kèm cặp sát sao học tập ở nhà.
- Do ảnh hưởng của dịch bệnh nên cô và trò không có đủ thời gian để thực hiện Tuần làm quen.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt 1 theo chương trình GDPT 2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt 1 theo chương trình GDPT 2018

rang 127 SGK TV tập 2, GV cần nêu rõ bài tập đọc này giúp ích cho các em hiểu rằng “Rửa tay là một việc làm rất quen thuộc đối với chúng ta hang ngày, và chúng ta cần rửa tay vào những lúc nào trong ngày và rửa tay như nào là đúng cách để phòng tránh được vi khuẩn xâm nhập vào trong cơ thể theo đường thức ăn thì bài đọc hôm nay sẽ giúp các em biết cần làm gì trước khi ăn và cần rửa tay như nào là đúng cách..” Với những kiến thức hữu ích mà tiết học đem lại, các em sẽ tập trung chú ý hơn trong giờ, các em sẽ ghi nhớ và chia sẻ lại với người thân của mình 3.2.4. Tạo hứng thú, động lực cho HS bằng lời khen, lời động viên và trao phần thưởng khi hoàn thành mục tiêu nhiệm vụ. Khi dạy học ở trên lớp, phần thưởng là điều không thể thiếu khi dạy HS lớp 1. Phần thưởng không chỉ được sử dụng trong trò chơi học tập, mà tôi áp dụng cho tất cả các nhiệm vụ cá nhân, nhóm, bất kì thời điểm nào của buổi học. Những lời khen sẽ luôn phát huy tác dụng nếu như giáo viên biết cách sử dụng đúng nơi, đúng chỗ, đúng thời điểm. Bởi chỉ với một lời nói thôi đã đủ làm các em thay đổi, tiến bộ từng ngày: - Em đọc có sự tiến bộ so với ngày hôm qua. - Em trả lời câu hỏi hoàn toàn chính xác. - Em đọc bài rất dõng dạc, lưu loát. Cứ thế phát huy nhé! - Em luôn chủ động đọc bài và tìm hiểu bài trước ở nhà. Rất đáng khen! Phần thưởng nhỏ thôi nhưng hiệu quả đạt được lại rất lớn. Lời khen sẽ giúp các em thi đua trong học tập và luôn hết mình hoàn thành nhiệm vụ. “Việc khen ngợi hay trân trọng một hành động đúng, dù là đương nhiên người ta phải làm, sẽ là một nguồn độc lực không hề nhỏ giúp cho hành động ấy được lặp lại sau này.” 3.3. Nhóm giải pháp thứ ba: Phối hợp các hình thức tổ chức và phương pháp dạy học. Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của HS còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách tổ chức dạy học dưới dạng thi đố, trò chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức các hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học, 3.3.1. Tổ chức trò chơi học tập Trò chơi học tập không phải là một phương pháp mới, nhưng nó luôn là một phương pháp gây hứng thú hiệu quả nhất trong mỗi tiết học đối với tất cả các đối tượng HS nói chung. Với HS lớp 1, trò chơi học tập lại càng phù hợp với tâm lý lứa tuổi của các em. Trước khi vào bài học mới, tôi thường cho lớp khởi động bằng những trò chơi nhỏ như: Trò chơi truyền điện “Tìm tiếng có vần đã học”; trò chơi “Bắn tên”; “Ai nhanh hơn?”, “Ghép tranh với hình tương ứng”, “Ai tinh mắt?”,. Tất cả những trò chơi này đều đòi hỏi sự vận động não bộ, chân, tay, mắt, tinh thần thi đấu của các em. Vì vậy, trò chơi là một phương pháp tạo sự hứng thú cho các em vô cùng hiệu quả. Tuy nhiên, trò chơi học tập phải sử dụng đúng cách, đúng chỗ và đúng thời điểm. Trò chơi học tập nên diễn ra nhanh, không nên kéo dài, nên tổ chức khoảng 5 phút đầu tiết khi khởi động hoặc lúc giải lao chuyển tiết, chuyển giữa các hoạt động. Trò chơi được sử dụng cần đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với lứa tuổi của các em. Mục đích của trò chơi học tập là tạo hứng thú để các em tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, chứ không phải mục đích chính là để các em ghi nhớ kiến thức một cách gượng ép, bởi sau mỗi lần được tham gia chơi, là các em đã có những ấn tượng nhất định về tiết học và bài học mà các em đã tham gia. Giáo viên không nên tổ chức trò chơi với những bài nặng nề kiến thức, sẽ gây quá tải và mệt mỏi cho các em. 3.3.2. Dạy học sắm vai Dạy học sắm vài thường được sử dụng trong phân môn Kể chuyện. Các em được hoá thân vào các nhân vật, sử dụng những lời nói, khả năng diễn xuất của mình để tái hiện lại câu chuyện. Mỗi lần các em tham gia sắm vai, các em giống như một diễn viên thực thụ. Chắc chắn, đó sẽ là những trải nghiệm tạo nhiều sự hứng thú cho các em khi học tiết kể chuyện. Quy trình đó, được thực hiện như sau: Bước 1: GV kể mẫu theo tranh từ 1 đến 2 lần. Bước 2: Trả lời các câu hỏi theo gợi ý từng tranh. Bước 3: Chia nhóm, thảo luận kể phân vai. Bước 4: Thực hành sắm vai. Trong quá trình kể sắm vai, GV theo sát để hỗ trợ các em cách thể hiện, diễn xuất, khích lệ động viên khi các em làm tốt. Cho các em thêm thời gian tập dượt lại 1-2 lần để các em thêm sự tự tin. Và trao phần thưởng cho các em khi các em hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phương pháp này không chỉ giúp các em yêu thích tiết học mà còn để lại ấn tượng sâu sắc, giúp các em ghi nhớ kiến thức của mình lâu hơn. Dạy học sắm vai còn có thể áp dụng cả trong các giờ tập đọc. Những bài đọc có các nhân vật và lời thoại tôi thường phân vai để các em đọc. Ví dụ các bài đọc sau có thể sử dụng cách đọc phân vai: Khi mẹ vắng nhà, trang 70, sách Tiếng Việt tập 2. Câu hỏi của sói, trang 90, sách Tiếng Việt tập 2. Nếu không may bị lạc, trang 121, sách Tiếng Việt tập 2. Đọc phân vai là cách đọc có thể giúp nhiều em tham gia vào bài đọc cùng một lúc. Vừa tiết kiệm thời gian, nhiều HS được thực hành đọc lại khiến các em luôn chú ý vào bài học của mình. 3.4. Nhóm giải pháp thứ tư: Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học 3.4.1. Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học. Sử dụng đồ dùng dạy học nhằm điều khiển hoạt động nhận thức của HS, là điều kiện thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học giúp HS phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo khi tham gia vào các hoạt động của lớp. Từ đó HS nắm chắc kiến thức hơn, đồng thời hình thành, rèn luyện các kĩ năng, phát triển tư duy ngôn ngữ, và trí tưởng tượng. Ngoài ra, nó còn gây hứng thứ cho người học, giúp người học có được động cơ học tập tốt hơn. Với môn Tiếng Việt, đồ dùng dạy học khá đơn giản nhưng lại phát huy hiệu quả vô cùng lớn. Chỉ cần là những chiếc thẻ xanh, thẻ đỏ đề các em bày tỏ ý kiến. Hay những phiếu học tập có đủ các hình thù ngộ nghĩnh để các em làm các bài tập nối ngay trên phiếu của mình cũng đã đủ sức hút với các em. Và muốn có được một giờ học đạt hiệu quả cao thì phải có đồ dùng và thiết bị dạy học, nó là điều kiện thuận lợi giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học một cách tích cực. Do vậy, hoạt động sử dụng phương tiện đồ dùng dạy học có vai trò hết sức quan trọng, nó có ý nghĩa to lớn trong quá trình dạy học. Nó có mỗi quan hệ chặt chẽ với mục tiêu, nội dung, phương pháp, là một trong các vấn đề mà ngành giáo dục đang cải tiến nhằm đổi mới đồng bộ và toàn diện trong giáo dục hiện nay. Dưới đây là một số hình ảnh minh họa về các đồ dùng dạy học của học sinh trong giờ tiếng việt: 3.4.2. Sử dụng các phần mềm để dạy học hoặc thiết kế trò chơi như Powerpoint, Quizizz, Powerpoint là một phần mềm rất quen thuộc với giáo viên, là một công cụ hữu ích giúp chúng ta tạo được bài thuyết trình sinh động và lôi cuốn. Các đối tượng được sử dụng trong PowerPoint rất phong phú từ hình, âm thanh, phim ảnh đến các hiệu ứng chuyển chữ, cuộn trang để minh họa cho chủ đề đang diễn giải. Với HS lớp 1, tôi thường sử dụng phần mềm Powerpoint để trình chiếu các hình ảnh, bài đọc phóng to trong SGK, hoặc để thiết kế trò chơi tăng tương tác giữa HS và GV. Thông qua những trò chơi đơn giản nhưng vô cùng vui nhộn, các em sẽ được rèn các kĩ năng phát hiện vấn đề, kĩ năng nghe, nhìn, đọc, viết rất hiệu quả một cách chủ động, tự giác Phần mềm Quizizz là một phần mềm mới đang dần được sử dụng khá phổ biến. Sử dụng Quizizz, GV có thể: - Tạo ra các câu hỏi trắc nghiệm nhằm kiểm tra kiến thức ở các môn học cũng như kiến thức hiểu biết của HS. - Quizizz cho phép GV tiếp cận ngân hàng câu hỏi đa dạng hoặc tự tạo lập bộ câu hỏi phù hợp với mục tiêu kiểm tra đánh giá. Cho phép HS trong cùng một lớp có thể tham gia trả lời câu hỏi trên Quizizz vào cùng một thời điểm do thầy cô quy định; hoặc hoàn tất bài kiểm tra vào một thời gian thuận lợi, trước thời hạn thầy cô quy định. - Dễ dàng thông báo ngay kết quả và thứ hạng của những người tham gia trả lời câu hỏi nhằm gia tăng hứng thú học tập cho HS. Thông qua phần mềm này, giáo viên có thể phát hiện được những mảng kiến thức còn yếu của HS, những nội dung mà các em còn chưa nắm rõ hoặc chưa nắm chắc bài dẫn tới tỉ lệ làm bài sai cao trong lúc thực hành luyện tập. Từ đó, GV lập kế hoạch chi tiết để củng cố, phụ đạo thêm để rèn lại những kĩ năng còn yếu cho các em. Dưới đây là một số hình ảnh minh hoạ cho trò chơi học tập trên phần mềm Quizizz: 3.5. Xây dựng hình ảnh cô giáo thân thiện, chuẩn mực khi bước vào lớp. Khi bước vào lớp, giáo viên cần tạo ra bầu không khí vui vẻ, thoải mái qua cử chỉ, thái độ, cách nói năng hay qua cách ăn mặc. Vẻ bề ngoài chỉn chu, đẹp đẽ cũng là một cách thu hút sự chú ý của các em. Kết hợp với nụ cười tươi tắn, lời chào hỏi trìu mến sẽ tạo ra một năng lực tích cực lan toả tới HS cả lớp. Trong quá trình dạy học, giáo viên nên tôn trọng ý kiến cá nhân của các em, khuyến khích sự sáng tạo, khơi dậy lòng say mê học tập của các em. Tránh tạo ra sự áp đặt, gò bó các em vào những quy định cứng nhắc. Ngoài ra, cần tăng cường tương tác với HS. Những bạn có sự tiến bộ rõ rệt, nên khen thưởng một cách trịnh trọng, sẽ tạo được động lực cho các HS khác. III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI Sau khi áp dụng các kinh nghiệm trên, tôi thấy rõ sự tiến bộ của tập thể lớp, đặc biệt là với các em có nhận thức chậm. Các em ấy không còn sợ hãi khi phải đối mặt với môn Tiếng Việt. Kết quả cuối năm môn Tiếng Việt của lớp 1D Tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 40 88,8% 5 11,1% 0 0% 2.Về phẩm chất: Phẩm chất Mức độ hoàn thành Tốt Đạt Cần cố gắng SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Yêu nước 45 100% 0 0% 0 0% Nhân ái 45 100% 0 0% 0 0% Chăm chỉ 40 88,8% 5 11,2% 0 0% Trung thực 41 91,1% 4 8,8% 0 0% Trách nhiệm 40 88,8% 5 11,1% 0 0% 3. Về năng lực: + Năng lực chung: Năng lực Mức độ hoàn thành Tốt Đạt Cần cố gắng SL % SL % SL % Tự chủ và tự học 39 86,6% 6 13,3% 0 0% Giao tiếp và hợp tác 40 88,8% 5 11,1% 0 0% GQVĐ và sáng tạo. 40 88,8% 5 11,1% 0 0% + Năng lực đặc thù: Năng lực Hoàn thành tốt Đạt Cần cố gắng Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Ngôn ngữ 41 91,1% 4 8,8% 0 0% Tính toán 40 88,8% 5 11,1% 0 0% Khoa học 39 86,6% 6 13,3% 0 0% Thẩm mĩ 40 88,8% 5 11,1% 0 0% Thể chất 41 91,1% 4 8,8% 0 0% 4. Về thái độ học tập của HS: Trước đây mỗi ngày vào lớp học các em tỏ ra khá áp lực. Trong giờ học không khí căng thẳng, ít khi phát biểu ý kiến. Thậm chí có em còn chống đối, không tự giác lấy sách vở ra để học. Nhưng đến nay, hiện tượng đó không còn. Các em luôn tự giác, chủ động soạn sách vở để học bài. Em nào nghỉ học vì ốm thì rất sốt sắng, muốn được đến trường học cùng các bạn. Khi hoàn thành nhiệm vụ cô giao, các em còn chủ động lấy sách, truyện để rèn kĩ năng đọc. Cụ thể như sau: STT Họ và tên Trước khi áp dụng SKKN Sau khi áp dụng SKKN 1 Đặng Trần Nguyên Bảo Không muốn đến lớp học, hay khóc lóc, không tự chủ trong việc học. Vào học đều, đúng giờ hơn; tự giác tham gia học nhóm cùng bạn. 2 Vương Thị Khánh Linh Chưa biết cách viết bảng; học bài một cách thụ động, ít khi phát biểu ý kiến. Chữ viết rõ ràng; đọc trơn khá tốt; hăng hái phát biểu ý kiến hơn. 3 Nguyễn Bảo Sơn Hay nghỉ học không có lí do; ít nói, ít giao tiếp với bạn và thầy cô; chưa thuộc bảng chữ cái, viết bài mắc nhiều lỗi chính tả. Đi học đều hơn; tự tin hơn trong giao tiếp; biết thắc mắc với cô khi chưa hiểu bài; vở viết trình bày sạch sẽ. 4 Ngô Quang Vinh Chưa tự tin trong giao tiếp; viết bài không đúng dòng, đúng li; hầu như không phát biểu ý kiến. Biết thắc mắc với cô khi chưa hiểu bài; biết phối hợp với bạn để làm bài tập nhóm; chữ viết có nhiều tiến bộ. 5 Nguyễn Ngọc Thảo Vy Giọng đọc to, rõ ràng nhưng ít khi phát biểu; hay làm việc riêng trong giờ. Tập trung hơn trong giờ; tham gia thảo luận nhóm tích cực; hăng hái phát biểu ý kiến. 6 Đặng Bá Đức Ít khi phát biểu ý kiến, hay nói chuyện riêng. Tập trung hơn trong giờ; nhắc nhở bạn cùng lắng nghe cô giảng; hăng hái phát biểu đọc bài. IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Kết luận Thật vậy, muốn đạt được những điều kì tích thì phải yêu lấy những điều mình đang làm. Chỉ có động lực mới khiến ta vượt qua được khó khăn, thử thách. Đứng trên cương vị là người giáo viên, tôi nghĩ người thầy xuất sắc là người thầy biết truyền cảm hứng tới những HS của mình và khiêm nhường sau những thành tích. Đó cũng chính là hình ảnh người thầy mà tôi luôn mong muốn xây dựng cho chính bản thân mình. Chặng đường làm nhà giáo phía trước vẫn còn dài, con đường học tập của các em cũng không phải là ngắn, cho nên ngày từ những năm đầu tiên của bậc tiểu học, tôi muốn đặt nền móng trong tâm hồn các em sự hứng thú, niềm yêu thích với việc học. Và xa hơn nữa, tôi muốn truyền cảm hứng tới các em sự say mê, lòng quyết tâm nuôi dưỡng ước mơ mà các em sẽ lựa chọn cho tương lai của mình. Bởi chỉ khi có niềm đam mê, hứng thú thì các em mới có thể chạm tới thành công. Đó là một nhiệm vụ dẫu khó khăn, nhưng tôi tin chắc không phải không làm được. Sau sáng kiến này, tôi sẽ luôn tiếp tục trau dồi kiến thức, học hỏi những người đồng nghiệp để tích luỹ cho mình những bài học kinh nghiệm quý báu. Vì thế, tôi xin mạnh dạn đưa ra những kinh nghiệm của bản thân mình nhằm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt nói riêng và tất các các môn học khác nói chung, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ năm học 2021 – 2022. 2. KHUYẾN NGHỊ - Đối với nhà trường: cần bổ sung thêm nhiều tranh ảnh minh họa cho môn Tiếng Việt để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn . - Đối với tổ khối chuyên môn: Xây dựng nhiều chuyên đề về Tiếng Việt để các giáo viên trong tổ được đi dự giờ, học hỏi từ các lớp bạn. Trao đổi kinh nghiệm với các thành viên trong tổ để nâng cao chất lượng, đội ngủ cán bộ giáo viên trong cả tổ. - Đối với giáo viên: Chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi và tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em ham học học, và yêu thích môn học. Giáo viên cần xác định rõ vai trò của việc đọc, nắm được yêu cầu của khối lớp mình phụ trách, xác định những lỗi sai mà HS mình thường hay mắc phải để từ đó đưa ra những biện pháp khắc phục. - Về phía HS: Có đầy đủ đồ dung học tập .Có ý thức tự giác trong học tập. Giáo dục các em có tình yêu với môn Tiếng Việt để các em luôn có tinh thần ham học. Có như vậy thì HS mới ngày càng tiến bộ. - Trên đây là một số kiến nghị của bản thân. Rất mong các cấp lãnh đạo quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện để thầy và trò lớp 1 dạy và học tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn. Hà Đông, ngày . tháng . năm 2022 TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018, Đỗ Ngọc Thống (2019), Hướng dẫn dạy học môn Tiếng Việt theo CTPT mới, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Tạ Thuý Lan và Trần Thị Loan (2017), Sinh lý học trẻ em, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm. Lê Phương Nga và Đặng Kim Nga, Mô – đun Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục và Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Mô đun Kĩ năng lập kế hoạch theo hướng dạy học tích cực. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 bộ Kết Nối Tri Thức Với Cuốc Sống ( Tập 1, tập 2) , Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot.doc