Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy tốt dạng văn miêu tả Lớp 4

Chương trình lớp môn Tiếng Việt có 4 phân môn, mỗi phân môn có một nhiệm vụ riêng.

Phân môn Tập làm văn rèn cả bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn vừa có tính chất tổng hợp, vừa tận dụng các hiểu biết và kỹ năng về Tiếng Việt do các phân môn khác cung cấp, đồng thời phát huy những kết quả đó, góp phần hoàn thiện chúng. Chính vì vậy, để thực hiện được vai trò này, phân môn Tập làm văn lớp 4 có các mục đích yêu cầu sau:

Rèn luyện các kỹ năng sản sinh văn bản nói và viết phù hợp với mục đích giao tiếp trên cơ sở kiến thức sơ giản về văn bản kể chuyện, miêu tả, viết thư và một số loại văn ứng dụng trong sinh hoạt hằng ngày. Cụ thể là:

Kĩ năng phân tích đề

Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý bài văn

Kĩ năng viết đoạn, liên kết đoạn thành bài văn

Kĩ năng kiểm tra, sửa chữa bài văn nóivà viết

Các kĩ năng này được rèn luyện từng bộ phận hay toàn bộ ở các tiết Tập làm văn lớp 4.

Góp phần cùng các môn học khác phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy logic, tư duy hình tượng cho học sinh ở lớp 4, các loại bài làm văn đều gắn với chủ điểm.

Bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh, học các giờ tập đọc các em đã được tiếp nhận những hình ảnh đẹp của cuộc sống gần gũi theo các chủ điểm. Làm cho tình cảm gắn bó yêu mến với thiên nhiên, với người và việc chung quanh, nảy nở tâm hồn, tình cảm thêm phong phú, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh.

docx 31 trang Thu Nga 01/10/2025 350
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy tốt dạng văn miêu tả Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy tốt dạng văn miêu tả Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy tốt dạng văn miêu tả Lớp 4
trong bài làm.
Vì vậy để thực hiện được một tiết trả bài lên lớp thành công, tôi xác định phải thể hiện được năng lực chuyên môn, lòng nhiệt thành, tinh thần trách nhiệm và tâm huyết đối với nghề nghiệp cũng như đối với học sinh bằng cách:
Tôi đã chấm bài với một tinh thần, thái độ nghiêm túc, khách quan, vô tư, bám sát yêu cầu của đáp án ghi điểm, phần nhận xét ghi rõ ràng, cụ thể những ưu, nhược điểm và hạn chế của bài làm để học sinh dễ dàng nhận ra được những ưu, nhược điểm của mình từ đó rút kinh nghiệm cho bài làm văn tiếp theo đạt kết quả cao hơn.
Song song việc chấm bài với việc chấm bài kỹ lưỡng, tôi đã chuẩn bị cho mình một cuốn sổ riêng – tạm gọi là “Sổ chấm bài”. Sổ này sẽ dùng để ghi nhận lại những lỗi sai cơ bản của học sinh. Tùy vào tình hình thực tế sau mỗi bài viết, tôi đã chọn lọc một số lỗi sai cơ bản về kiến thức và kỹ năng mà học sinh hay mắc nhất để làm cơ sở cho việc soạn giảng. Đối với các lỗi còn lại, tôi đánh dấu bằng bút đỏ trên bài làm của học sinh để khi đến giờ chữa bài, tôi sẽ hướng dẫn các em tự sửa lại câu văn đó hoặc nhờ các bạn trong lớp góp ý, chỉnh sửa giúp bạn. Để đảm bảo thời gian của tiết dạy, tôi thường chuẩn bị sẵn phần này trên
máy chiếu hoặc bảng phụ và phân tích để các em cùng rút kinh nghiệm cho bài làm của mình.
Sau khi chấm xong bài của cả lớp, tôi đã có cái nhìn tổng quát để lựa chọn bài viết tiêu biểu hoặc bài làm có cách dùng từ, viết câu hay, dựng đoạn văn tốt hoặc những “lời hay ý đẹp”. Ngoài ra, tôi còn thường đánh dấu trên bài làm tốt của học sinh, chụp lại và chiếu cho cả lớp cùng học tập. Tôi thấy đây là một việc làm rất hiệu quả để khích lệ, động viên các em và tạo nên hiệu quả giáo dục tích cực của tiết trả bài. Trong giờ trả bài tôi đã đưa ra một các lỗi sai của học sinh nhưng để các em không cảm thấy tự ti hay “xấu hổ” tôi thường không nêu tên và hướng dẫn, động viên học sinh sửa lại và tìm cách giúp các câu văn trở nên hay và sinh động hơn.
Thực tế trong chương trình các tiết trả bài không có nhiều nên ngoài việc hướng dẫn học sinh tự sửa các câu văn để rèn kỹ năng trong này, tôi còn tích cực hướng dẫn và sửa cho các em từ các tiết xây dựng đoạn văn để các em chủ động hơn trong việc hoàn thiện kỹ năng viết của mình.
Cuối cùng, tôi thống kê chất lượng bài viết sau đó đối chiếu với kết quả ở bài viết trước để đánh giá kịp thời tình hình học tập của cá nhân từng học sinh và của lớp. Việc này giúp tôi luôn chủ động trong việc theo dõi sự tiến bộ của học sinh và chất lượng dạy học của mình để đưa ra những giải pháp kịp thời, phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của phân môn Tập làm văn.
Nhờ vậy giờ đây các em đã có cho mình kỹ năng viết, không ngại và không “lười” viết. Trong giờ học, tôi luôn động viên học sinh của mình rằng: “Việc các em được cô và các bạn sửa, chữa các câu văn và tự viết lại chính là đang tự rèn cho mình kỹ năng làm văn đấy”. Vì vậy, các em luôn cố gắng, nỗ lực chăm chỉ và rèn luyện để viết lại cho mình những đoạn văn, bài văn hay. Ngoài ra, tôi còn cảm thấy tình yêu môn Tập làm văn đang dần dần lớn lên trong học sinh của mình bởi các em luôn hăng hái, tích cực chia sẻ bài làm của mình với cô và các bạn trong lớp trong suốt các tiết học.
Biện pháp thứ 6: Ứng dụng công nghệ thông tin, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong dạy học trực tuyến
Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, khai giảng năm học 2021-2022, Hà Nội và một số tỉnh, thành phố khai giảng trực tuyến hoặc trên truyền hình vào đúng ngày 5/9, đảm bảo các quy định về giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Chính phủ. Trong năm học này, hơn 20 triệu học sinh, sinh viên và gần 2 triệu nhà giáo các cấp học chưa thể tiếp tục dạy học và học theo phương thức dạy học trực tiếp. Đây được coi là phương pháp giảng dạy khá hiệu quả mà giáo viên và học sinh cần áp dụng một cách có định hướng để truyền tải kiến thức đến học
sinh một cách linh hoạt, giúp cho người học theo được mạch bài giảng đạt được mục tiêu của bài học và môn học.
Cũng giống như các môn học khác, đối với phân môn Tập làm văn, để đạt được hiệu quả, tạo hứng thú cho học sinh đòi hỏi tôi cần có những phương pháp dạy học phù hợp và ứng dụng công nghệ thông tin trong các tiết dạy của mình.
Trước khi lên lớp, tôi đã chuẩn bị bài giảng của mình thật chu đáo. Có như vậy kiến thức mới vững vàng, phương pháp mới sinh động. Bên cạnh việc chuẩn bị một cách đầy đủ, chu đáo tôi đã tích cực, chủ động đưa ra các phần mềm hỗ trợ dạy học trực tuyến vào trong quá trình giảng dạy của mình để nhằm mang lại những tiết dạy trực quan sinh động, tạo hứng thú cho học sinh và khơi gợi sáng tạo từ học trò.
Ngoài ra, trong bối cảnh dịch bệnh lây lan với nhiều diễn biến khó lường, để hỗ trợ học sinh của mình không bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh mà vẫn đảm bảo được hiệu suất học tập, tôi đã nghiên cứu, tìm tòi các phần mềm học tập trực tuyến từ xa. Sau khi tìm hiểu và có cho mình sự hiểu biết nhất định, tôi đã lựa chọn ứng dụng Zoom Cloud Meeting là người bạn đồng hành thân thiết trên em đường chinh phục tri thức của mình và các em học sinh.
Một số hình ảnh minh họa trong giờ học với ứng dụng Zoom
Theo tìm hiểu, tôi thấy ứng dụng Zoom là một ứng dụng rất nổi tiếng trong lĩnh vực: họp mặt, hội thảo, đào tạo và dạy học trực tuyến với đầy đủ các tính năng như: Chia sẻ nôi dung màn hình, trò chuyện trực tuyến, chia sẻ tài liệu, bảng trắng, trình chiếu Powerpoint,... cho phép nhiều người được kết nối. Tôi đã nhận ra đây là một phần mềm với rất nhiều ưu điểm như: miễn phí, tương tích với tất cả các hệ điều hành trên điện thoại và máy tính. Ngoài ra, việc cài đặt, đăng ký tài khoản cá nhân đơn giản, không gây khó khăn cho phụ huynh và học
sinh. Đặc biệt, khi sử dụng có tính ổn định cao, độ trễ thấp giúp tôi và các em học sinh dễ dàng tương tác mà không lo bị gián đoạn trong giờ học.
Bên cạnh việc dạy học trực tuyến, việc chấm bài trực tuyến khi dạy phân môn Tập làm văn cũng rất cần thiết và quan trọng. Đây được coi là một quy trình thống nhất với phần viết bài của học sinh. Bởi việc giáo viên đánh giá bài làm của học sinh cũng chính là một bước để giúp các em hoàn thiện bài viết, rút ra được những kinh nghiệm và hoàn thiện kỹ năng viết văn của mình.
Vậy để đạt được mục tiêu trên, trong dạy học trực tuyến, tôi đã tìm đến ứng dụng Azota để hỗ trợ cho việc giao và chấm bài trực tuyến cho học sinh của mình.
Một số hình ảnh minh họa trong giờ học với ứng dụng Azota
Có thể nói đây là một ứng dụng rất tiện lợi, hỗ trợ tôi rất nhiều cho công tác giảng dạy, đặc biệt là trong việc giao bài tập và chấm bài cho học sinh. Về ưu điểm, từ khi sử dụng ứng dụng này, tôi thoát khỏi lỗi lo về việc mất bài của học sinh bởi tôi có thể lưu bài và theo dõi kết quả học tập của các em một cách dễ dàng. Đặc biệt, giao diện cuả Azota cũng đã trở thành cánh tay đắc lực của tôi, giúp tôi chấm bài, dễ dàng đưa ra các ý kiến nhận xét cho bài viết của các em. Mặt khác, khi sử dụng học sinh của tôi cũng có thể nộp bài một cách dễ dàng và chủ ộng chỉ bằng việc chụp ảnh và một số thao tác đơn giản.
Để những tiết học trở nên sôi động, hiệu quả thì việc theo dõi, động viên, và khích lệ tinh thần học tập của học sinh là việc làm quan trọng. Theo tìm hiểu, tôi được biết Class dojo là một công cụ yêu thích của giáo viên khắp thế giới. Bởi lẽ, phần mềm này đặc biệt hữu ích, giúp giáo viên quản lí lớp, rèn luyện nề nếp cho học sinh. Khi tôi triển khai, học sinh của tôi rất thích thú vì khi sử dụng mỗi em sẽ được đại diện bằng một hình Monster rất ngộ nghĩnh và đáng yêu. Ngoài ra, trong lớp học đó tôi có thể tạo ra đầy đủ các nội quy, khuyến khích,
học sinh ở các mặt cụ thể như: hăng hái xây dựng bài, làm bìa chăm chỉ, tích cực làm việc nhóm,... Hay để giúp học sinh của mình có tinh thần học tập tích cực, tập trung trong giờ học tôi đã trừ điểm khi các em vi phạm các lỗi như: chat tự do trong giờ học, không tham gia thảo luận nhóm, làm việc riêng trong giờ học,...
Đặc biệt, mỗi khi tôi khen thưởng hay nhắc nhở một học sinh nào đó, thông tin này sẽ hiển thị trên điện thoại của phụ huynh. Như vậy sau 1 tuần, một tháng,.. tôi thường tổng hợp lại xem em nào có điểm số cao nhất. Từ đó sẽ có cách khen thưởng phù hợp như được vinh danh, tặng một món quà,...
Một số hình ảnh minh họa trong giờ học với ứng dụng Class Dojo
Khi dạy học phân môn Tập làm văn, tôi luôn chú trọng cách khơi gợi sự sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ, viết câu văn của các em học sinh. Vì vậy tôi đã lựa chọn ngay ứng dụng Padlet để hỗ trợ mình thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng này. Ứng dụng Padlet là công cụ tạo các diễn đàn – thảo luận – trưng bày và lưu trữ các sản phẩm học tập, cung cấp tư liệu học tập thú vị. Sau thời gian tìm hiểu, tôi đã sử dụng ứng dụng này để tạp các phòng triển lãm mini để học sinh lớp tôi chủ động chia sẻ bài viết của mình với cô giáo và các bạn trong lớp. Thông qua đó, các em sẽ được học tập những câu văn, cách miêu tả đặc sắc của các bạn trong lớp để tự hoàn thiện và rèn kỹ năng viết văn của mình.
Nhờ có việc sử dụng linh hoạt và hợp lí các ứng dụng công nghệ khi dạy học trực tuyến mà các tiết dạy phân môn Tập làm văn của tôi, học sinh luôn hào hứng, chủ động học tập. Những kiến thức văn học cũng trở nên hay ho và thú vị hơn rất nhiều, các em luôn kết thức tiết học với khuôn mặt vui tươi, rạng ngời.
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau quá trình thực hiện các biện pháp dạy học văn miêu tả lớp 4, giữa học kì II, tôi thực hiện khảo sát để kiểm tra hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp trên vào thực tế, kết quả như sau:
Bảng so sánh số liệu trước và sau khi thực hiện các giải pháp của SKKN
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 4H
Thời gian khảo sát: ngày 19/4/2020
Kết quả khảo sát:
STT

Nội dung
Trước khi thực hiện các giải pháp của
SKKN
Sau khi thực hiện các giải pháp của SKKN
Học sinh
nắm được kiến thức
Học sinh
còn chưa nắm chắc
Học sinh
nắm được kiến thức
Học sinh
còn chưa nắm chắc

1.
Biết	lập	dàn	bài, viết bài văn đủ 3
phần.

81%

19%

91%

9%

2.
Viết được bài văn hay, biết bám vào các hình ảnh, kết hợp sự sáng tạo, sử dụng biện pháp tu từ
đơn giản của cá nhân

77%

23%

89%

11%
3.
Hứng thú học tập
79%
21%
89%
11%

PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết luận
Sau quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi đề tài ở tiết Tập làm văn miêu tả lớp 4, tôi nhận thấy các em học sinh của lớp mình có nhiều tiến bộ. Tình trạng học sinh làm lạc đề, sai lỗi về chính tả, dùng từ đặt câu... đã giảm rõ rệt. Nhiều học sinh biết cách sử dụng những biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa làm cho bài văn trở nên sinh động và giàu hình ảnh. Bên cạnh đó các em còn biết làm văn có cảm xúc hơn, từ việc ngại viết văn các em đã hứng thú làm văn hơn, đặc biệt với văn miêu tả. Và một ý nghĩa quan trọng hơn nữa là đã bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, giúp tâm hồn các em ngày thêm trong sáng.
Tôi thiết nghĩ để quá trình dạy tập làm văn đạt hiệu quả bản thân cũng như mỗi giáo viên phải không ngừng học hỏi, nâng cao tay nghề, luôn sáng tạo, cải tiến cách dạy tìm ra phương pháp dạy đạt hiệu quả cao nhất, phù hợp điều kiện học sinh, trường mình giúp các em vững vàng tự tin đưa văn học vào đời sống, vào bài văn của mình một cách sinh động, hấp dẫn, chân thực. Nó đòi hỏi người giáo viên như một con ong kiên trì, cần mẫn.
Là người hướng dẫn, tôi không gò ép các em theo các khuôn mẫu, để các em được tùy ý sáng tạo, trình bày với những tư liệu mình đã quan sát, cảm nhận được. Và mọi suy nghĩ, cách nhìn của các em đều được tôn trọng. Chính điều đó đã giúp các em tự tin hơn vào những cảm nhận và đánh giá cá nhân của mình.
Quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm
Cá nhân nghiên cứu, thu thập các tư liệu liên quan đến văn miêu tả, phân tích đánh giá thực tiễn, thực trạng dạy học.
Đề xuất các biện pháp thực hiện, trao đổi trong tổ nhóm chuyên môn.
Tiến hành dạy thể nghiệm một số bài dạy trên đối tượng học sinh, rút kinh nghiệm bổ cứu.
Dạy đồng loạt trên đối tượng học sinh.
Kiểm tra kết quả thực hiện của sáng kiến kinh nghiệm.
Rút kinh nghiệm, bổ sung hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm
Khả năng ứng dụng, triển khai sáng kiến kinh nghiệm
Sáng kiến kinh nghiệm là những vấn đề có cơ sở khoa hoc, cơ sở thực tiễn, đặc trưng môn học, của giáo dục tiểu học, tâm sinh lí lứa tuổi, áp dụng những phương pháp, hình thức dạy học tích cực, phát huy năng lực học cho học sinh. Sáng kiến kinh nghiệm là những biện pháp hữu hiệu về dạy học văn miêu tả. Tôi tin rằng nếu triển khai vào dạy học ở các trường tiểu học sẽ đạt kết quả cao.
KHUYẾN NGHỊ
Để những biện pháp của đề tài mang lại hiệu quả, tôi xin có một số ý kiến đề xuất sau đây:
Đối với ngành
Nghiên cứu các ngữ liệu đưa vào sách giáo khoa cho phù hợp với tâm lý lứa tuổi, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh hiện nay.
Hàng năm cần tổ chức các phong trào thi đua viết thơ văn, sáng tác nhỏ của tuổi thơ để các em có điều kiện phát huy tài năng của mình.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường: Trang bị những thông tin hiện đại, máy tính nối mạng Internet để giáo viên có thể tra cứu, tìm các thông tin phục vụ cho giảng dạy.
Đối với nhà trường
Tăng cường đầu sách trong thư viện để giáo viên có đủ tư liệu tham khảo, sách văn học, sách dạy kỹ năng, phục vụ cho giảng dạy nhất là các tạp chí: Giáo dục Tiểu học, Thế giới trong ta sách văn học thiếu nhi.....
Hàng năm thường xuyên tổ chức cho giáo viên và học sinh đi thăm quan du lịch để nâng cao hiểu biết về cảnh vật, đất nước và con người Việt Nam.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
Hà Nội, ngày 21 tháng 4 năm 2022
Người viết
Đào Thị Hồng Hà
PHỤ LỤC
Sau đây là một số bài văn mà học sinh lớp 4H đã viết trong học kì I (tả đồ vật) và học kì II (tả cây cối và con vật). Đây là những quan sát và miêu tả rất trong sáng và hồn nhiên của các em tuy còn nhiều bỡ ngỡ nhưng cũng rất đáng được ghi nhận và khuyến khích.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở tiểu học lớp 4, NXB Giáo dục, 2009
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 4 tập 1, 2, NXB Giáo dục, 2007
Phan Phương Dung, Hướng dẫn làm bài Tập làm văn 4, NXB ĐHSP, 2006
Phan Phương Dung - Dương Thị Hương - Lê Phương Nga - Đỗ Xuân Thảo, Giúp em học tốt Tiếng Việt 4 tập 1, 2, NXB Hà Nội, 2006
Xuân Thị Nguyệt Hà - Phạm Thị Thanh Hà - Nguyễn Thị Nhung, Học qua văn mẫu 4, NXB Hà Nội, 2006
Hồng Hạnh, Lê Hữu Tỉnh, Rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ cho học sinh, Nghiên cứu giáo dục 1994 - tr 20-22.
Trần Mạnh Hưởng - Lê Hữu Tỉnh, Bồi học sinh giỏi Tiếng Việt 4, NXB Giáo dục, 2007
Trần Mạnh Hưởng - Nguyễn Trí, Thực hành Tập làm văn 4, NXB Giáo dục, 2008
Trần Mạnh Hưởng - Xuân Thị Nguyệt Hà, Ôn luyện và củng cố Tiếng Việt 4 tập 1, 2, NXB Giáo dục, 2009
Lê Phương Nga - Lê Hữu Tỉnh - Nguyễn Trí, 40 để ôn luyện Tiếng Việt cuối cấp Tiểu học, NXB Giáo dục, 2009
Lê Phương Nga - Nguyễn Trí, Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiẻu học, NXB ĐHQG Hà Nội, 1999
Lê Phương Nga (Chủ biên) - Trần Thị Minh Phương - Lê Hữu Tỉnh,
Tiếng Việt nâng cao 4, NXB Giáo dục, 2009
Lê Phương Nga, Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học II, NXB ĐHSP, 2009

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_tot_dang_van_mieu.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy tốt dạng văn miêu tả Lớp 4.pdf