Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy Tập viết chữ viết hoa cho học sinh Lớp 2

Nhìn vào khả năng viết chữ và thực trạng dạy Tập viết của giáo viên Tiểu học hiện nay mà việc dạy Tập viết phải được tiến hành theo các khâu cơ bản sau:

- Lên kế hoạch dạy học: Kèm theo giáo án điện tử với những bài (chữ viết hoa) có khả năng làm được của giáo viên.

- Thực hiện kế hoạch trong giờ dạy trên lớp.

Một thực tế cho thấy, người lãnh đạo và người dạy đều thấy rõ về vai trò của môn Tập viết chữ viết hoa, nhưng lại chưa xây dựng các chuyên đề Tập viết lớn để cho giáo viên trao đổi, học tập. Trong môn Tiếng Việt, chưa thực sự coi trọng phân môn Tập viết như các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu... Vì thế, chưa tạo được sự hứng thú khi dạy và học các phân môn này. Ở trong một số trường khi đi kiểm tra, giáo án Tập viết vẫn còn một số giáo viên chưa hướng dẫn học sinh một cách cơ bản và tỉ mỉ về việc viết chữ đúng mấu, chưa kết hợp nhuần nhuyễn việc dạy viết chữ với việc dãy nghĩa của từ, chưa hướng dẫn học sinh cách trình bày theo từng loại văn bản (thơ, văn xuôi). Đặc biệt là có giáo viên sử dụng giáo án điện tử nhưng chỉ là để làm thay việc hướng dẫn và viết mẫu của giáo viên mà thôi.

docx 17 trang Thu Nga 01/10/2025 340
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy Tập viết chữ viết hoa cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy Tập viết chữ viết hoa cho học sinh Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy Tập viết chữ viết hoa cho học sinh Lớp 2
 ở đâu, sai chỗ nào và tự biết cách điều chỉnh. 
 -Một số ví dụ:
+ Với các bài: Chữ hoa Ă, Â, chữ hoa Đ, chữ hoa Ê, sau khi giới thiệu về chữ mẫu giáo viên chỉ cần thêm sile về chữ hoa A, D và E thế là học sinh nhận ra ngay sự giống và khác nhau với các chữ đã học. Giáo viên lại không mất thời gian lục đục lấy thêm mẫu chữ treo lên bảng. 
+ Hoặc khi học viết chữ hoa G, tôi cũng chỉ cần chiếu lại phần cách viết chữ hoa C thế là học sinh có thế nhận ra cách viết chữ hoa G. 
+ Thậm chí có bài, tôi chỉ cần đưa mẫu chữ đã học, rồi làm hiệu ứng thêm nét để ra chữ mới là học sinh đã tự nhận ra cách viết mà chưa cần cô hướng dẫn.
Ví dụ: 
 *Cách viết chữ hoa Đ
Cách viết giống như viết chữ hoa D đã học, sau đó thêm nét gạch ngang ở đường kẻ 3.
 *Hướng dẫn viết chữ cái hoa P 
 * Gắn mẫu chữ P
 + Chữ P cao mấy li? Gồm mấy đường kẻ ngang?
Viết bởi mấy nét?GV chỉ vào chữ P và miêu tả: 
 + Gồm 2 nét – nét 1 giống nét 1 của chữ B, nét 2 là nét cong trên có 2 đầu uốn vào trong không đều nhau.
 GV hướng dẫn cách viết: 
Nét 1: Đặt bút trên đường kẻ 6, viết nét móc ngược trái. Dừng bút trên ĐK2.
Nét 2: từ điểm dừng bút của nét 1, lia bút lên ĐK5, viết nét cong trên có 2 đầu uốn vào trong , dừng bút ở giữa đường kẻ 4 và đường kẻ 5.
*Hướng dẫn viết chữ hoa Q (kiểu 2): 
- Nét 1 : Đặt bút trên ĐK6, đưa bút sang trái viết nét cong kín, phần cuối lượn
vào trong bụng chữ, đến ĐK4 thì lượn lên một chút rồi dừng bút như chữ hoa O 
- Nét 2: Từ điểm dừng bút của nét 1, lia bút xuống gần ĐK2 trong chữ O, viết nét lượn ngang từ trong lòng chữ ra ngoài, dừng bút trên ĐK2.
Chữ viết hoa 
đã học
Cách làm
Chữ viết hoa mới
Chữ hoa D
Thêm nét gạch ngang giữa thân chữ hoa D

Chữ hoa Đ

Chữ hoa E
Thêm dấu mũ trên đầu chữ hoa E

Chữ hoa Ê

Chữ hoa U
Thêm cái râu móc ở nét móc ngược phải chữ hoa U

Chữ hoa Ư
 
 - Với các cách làm mà giải pháp này đem đến tác dụng lớn trong giảng dạy
 môn Tập viết. 
+ Tác dụng lớn nhất mà ai cũng có thể nhận ra, đó là sự hấp dẫn, lôi cuốn của công nghệ mang lại. Nó tạo ra sự hứng thú cho học sinh học tập. Nó không còn là môn học cứng nhắc với các bước dập khuôn nữa.
+ Hiệu quả nữa của giải pháp này là: trong mỗi tiết dạy giáo viên không mất nhiều thời gian cho việc sử dụng đồ dùng hay mẫu vật nữa. Thay vào đó giáo viên tập trung vào hướng dẫn học sinh viết bài.
+ Một tác dụng nữa của biện pháp này đó là kết quả bài viết của học sinh được trình chiếu ngay lên bảng cho cả lớp cùng xem. Vậy là các em có thể biết bài của mình có sai hay đúng nét chữ nào giống của bạn không để tự sửa. Tôi cho rằng đây là tác dụng lớn nhất khi ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy tập viết cho học sinh. 
3. Chia các chữ viết hoa thành các nhóm chữ: theo nét chữ được viết và theo cỡ chữ.
- Tác dụng của giải pháp này là tạo ra sự tích cực trong học tập của học sinh. Các em sẽ được chủ động nhận biết kiến thức, nhận ra kiến thức mới trong mỗi bài học. Và đây, cũng chính là tác dụng lớn của giải pháp này. Thay vì việc nghe giáo viên giảng rồi hình dung nét chữ, thì học sinh sẽ được trực quan trực tiếp về các nét chữ giống nhau trong mỗi nhóm chữ. Qua đó các em chủ động thực hiện viết nét chữ đã học cho chữ mới học. 
- Cách làm này không có gì là khó đối với giáo viên. Chỉ cần dành ra một khoảng thời gian là mọi người có thể chia nhóm chữ được.
+ Nhóm các chữ cái viết hoa có nét giống nhau
* Nhóm 1 gồm các chữ: U, Ư, X, Y, N(kiểu 2), M(kiểu 2)
* Nhóm 2 gồm các chữ: A, Ă, Â, M, N
* Nhóm 3 gồm các chữ: P, R, B, 
* Nhóm 4 gồm các chữ: I, K, H, V
* Nhóm 5 gồm các chữ: C, E, Ê, G, L, S, 
* Nhóm 6 gồm các chữ: O, Ô, Ơ, A(kiểu 2), Q(kiểu 2)
 	Việc chia nhóm như vậy sẽ giúp học sinh so sánh được cách viết các chữ, tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau. Đặc biệt, học sinh còn tự nhận ra nét đã học trong chữ mới và tự viết được nét đó. Từ đó, học sinh nắm chắc được cách viết và các em sẽ viết được chuẩn hơn, đẹp hơn. Vì vậy, tôi cũng cho các em luyện thêm cách viết theo nhóm trong các tiết hướng dẫn học.
+ Nhóm các chữ cái viết hoa có cùng cỡ chữ: cả độ cao và độ rộng của chữ.
 	Phần lớn các chữ cái viết hoa có cùng cỡ chữ, chỉ có 1 vài chữ có độ cao hoặc độ rộng khác biệt. Vậy nên việc chia các chữ cái theo cỡ chữ là không mấy khó khăn. Việc chia theo cỡ chữ sẽ giúp học sinh nhận diện cỡ chữ để viết đúng cỡ sẽ dễ dàng hơn nhiều. Các em sẽ không mất thời gian quan sát mẫu mà nhận dạng, hình dung, sau đó thao tác được nhanh hơn và chính xác hơn. 
*Độ cao của chữ: Dù là chữ cỡ vừa hay cỡ nhỏ thì phần lớn các chữ có độ cao tương đồng. Duy nhất có hai chữ cái viết hoa là có độ cao khác biệt do cấu tạo chữ. Đó là chữ hoa G và chữ hoa Y.
*Độ rộng của chữ: Trong chữ viết hoa hay viết thường thì độ rộng của chữ bao giờ cũng là phần mà học sinh khó định lượng nhất, còn giáo viên thì khó hướng dẫn nhất. Chính vì thế, việc chia các chữ thành nhóm chữ có độ rộng cũng khó hơn nhưng lại giúp học sinh dễ nhớ hơn. Đặc biệt là với cỡ chữ nhỏ. Các chữ có độ rộng khác biệt nhất là chữ hoa M cả kiểu 1 lẫn kiểu 2. Dưới đây là một số hình mẫu chữ:
*Ví dụ: 
Bài chữ hoa G
 Sau khi học sinh quan sát chữ mẫu trên màn hình, trả lời câu hỏi
+ Chữ hoa G cao mấy li, rộng mấy ô li? (Chữ hoa G cao 8 li, rộng 4 ô li.)
+ Chữ hoa G gồm mấy nét? Là những nét nào? (Chữ hoa G gồm 2 nét: Nét 1 là kết hợp của 2 nét cơ bản: cong dưới và cong trái, 2 nét này viết liền tạo vòng xoắn to ở đầu chữ. Nét 2 là nét khuyết dưới.)
+ Chữ hoa G có nét chữ giống nét chữ hoa nào đã học?/ Có nét 1 giống chữ hoa C.
 	Giáo viên sẽ chỉ trên màn hình rồi nêu cách viết: Đặt bút trên ĐK ngang 6, viết nét cong dưới (giống chữ hoa C), sau đó đổi chiều bút viết nét cong trái tạo vòng xoắn to ở đầu chữ, dừng bút trên ĐK ngang 2. Từ điểm dừng bút của nét 1, đổi chiều bút viết tiếp nét khuyết dưới, dừng bút ở ĐK ngang 2. 
4. Điều kiện về cơ sở vật chất và các yếu tố xung quanh.
- Với nhiều năm dạy, tôi thiết nghĩ đây là một yếu tố cực kì quan trọng. Nó có tầm ảnh hưởng lớn đến chữ viết của học sinh. Cho dù học sinh đã hiểu bài, đã nắm được cách viết chữnhưng với các yếu tố về cơ sở vật chất lại quyết định đến kết quả chữ viết của học sinh rất nhiều. Đây là giải pháp cuối cùng nhưng nó lại mang yếu tố quyết định đến chất lượng chữ viết của học sinh và hiệu quả bài dạy của giáo viên. 
- Mỗi một yếu tố có tác dụng riêng nhưng tựu chung nó lại đem đến hiệu quả thật lớn. Chính vì vậy, khi dạy Tập viết người giáo viên cần chú ý đến tất cả các yếu tố này. Sau đây tôi sẽ nêu kĩ hơn về từng yếu tố:
4.1. Yếu tố về ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế của học sinh:
 	Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc viết chữ và sức khoẻ của học sinh. Hiện nay hầu hết các trường Tiểu học đều được trang bị bàn ghế, đèn chiếu sáng cho các lớp học và đều đạt chuẩn. Tuy nhiên, trong bất cứ giờ học nào, khi vào lớp thì giáo viên cần để ý đến ánh sáng đầu tiên cho học sinh. Nếu ngoài trời khô ráo, có ánh sáng mặt trời thì cần mở cửa lấy đủ ánh sáng cho học sinh. Còn với những hôm tối trời do thời tiết thì cần bật hết hệ thống đèn điện để lấy đủ ánh sáng cho các em. Anh sáng theo tiêu chuẩn học đường có bảng chống loá, có dòng kẻ rõ ràng mới giúp học sinh học tập tốt mà trong tiết Tập viết mới đạt hiệu quả tối đa.
 	Đối với bàn ghế cũng vậy, bàn ghế đúng kích cỡ tiêu chuẩn đối với học sinh cấp lớp 2. Bàn ghế kê không ngay ngắn cũng làm ảnh hưởng tới tư thế ngồi viết của các em, không những thế còn ảnh hưởng tới sức khỏe của các em sau này. Bời thế nên khi vào lớp, tôi phải quan sát tới bàn ghế của học sinh. Nếu bàn ghế nào chưa ngay ngắn, lập tức tôi chỉnh sửa lại. Một việc nhỏ nữa cũng cần chú ý, đó là khoảng cách giữa các em học sinh. Đây là việc mà tôi thường xuyên phải nhắc nhở, để cho các em ngồi đúng chỗ, cách đều các bạn. Học sinh lớp 2 vẫn còn nhỏ, tính hiếu động cao nếu giáo viên không chú ý, các em sẽ ngồi sán với nhau để trò chuyện hoặc làm việc riêng ngay. Chính vì thế, khi viết bài cần chú ý đến khoảng cách chỗ ngồi cho các em. 
 4.2. Bút viết của học sinh
Nhiều người cho rằng, với học sinh tiểu học thì viết bút nào cũng được miễn sao là bút mực. Đây là một quan niệm hết sức sai lầm. Càng với học sinh nhỏ, việc lựa chọn bút viết cho các em càng cần phải kĩ càng. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại bút mực, nhưng để có loại bút phù hợp cho học sinh lớp 2 là không hề dễ chọn. Không phải học sinh nào cũng có thể viết được bút mài ngòi, hay em nào cũng có thể viết được các loại bút. Vì vậy, năm học nào cũng vậy, ngay từ đầu năm tôi đã quan sát xem học sinh của mình viết loại bút như thế nào, có phù hợp với các em không. Thậm chí tôi đã chọn loại bút mà tất cả học sinh đều có thể viết được. Đó phải là bút có ngòi lá tre, có phần đầu cầm dễ dàng, bút phải nhẹ để các em có thể sử dụng trơn tru. Có thể nhiều giáo viên cho rằng như thế là cầu kì, nhưng với kinh nghiệm nhiều năm rèn chữ cho học sinh thì tôi biết đó là việc làm không thừa chút nào. Chính vì vậy, các bài tập viết của học sinh lớp tôi đều đạt hiệu quả cao, chất lượng vở sạch chữ đẹp cũng khá tốt so với các lớp cùng khối. 
 Ngoài các yếu tố trên về cơ sở vật chất thì còn một vài yếu tố nhỏ nữa không thể bỏ qua. Đó là, bảng con, phấn viết của học sinh. Nếu bảng con không có kẻ li rõ, phấn viết bị cứng quá cũng sẽ ảnh hưởng đến phần tập viết của các em. Bởi trước khi học sinh viết bài trong vở thì các em đều phải luyện trên bảng để làm quen. Cho nên trong buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đưa ra những quyển vở, bút chì, bút mực để phụ huynh tham khảo. Riêng bảng con thì 
tôi thống nhất toàn lớp để tránh tình trạng của em này thì có ô to, bảng của em kia thì có ô nhỏ sẽ gây khó khăn khi dạy Tập viết
 Đây là mẫu bút mực và bảng con tôi hướng dẫn học sinh sử dụng khi tập viết.
4.3. Yếu tố về tư thế ngồi và cách cầm bút viết
- Tư thế ngồi viết không ngay ngắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết. Ngồi nghiêng, vẹo sẽ dẫn đến chữ viết không thẳng, bị lệch dòng. Không những thế còn có hại cho sức khoẻ: Sẽ bị cận thị nếu cúi sát vở, vẹo cột sống, gù lưng, phổi bị ảnh hưởng. Nếu ngồi viết không ngay ngắn. Vì trẻ nhỏ tư duy trực quan là chủ yếu nên để các em nhớ kĩ tư thế ngồi viết và cách cầm bút tôi đã treo ở lớp bức tranh “Hướng dẫn tư thế ngồi viết, ..”được phóng to từ vở tập viết in và được tô màu để hấp dẫn các em . 
- Một việc hết sức quan trọng là cách cầm bút. 
+ Cầm bút bằng ba đầu ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút chặt quá hay lỏng quá). 
+ Khi viết dùng ba ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng từ trái sang phải (Chú ý không nhấn mạnh đầu bút xuống mặt giấy). 
+ Cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động mềm mại và thoải mái. Tôi lưu ý các em cách cầm bút vừa phải. Còn vở viết cũng nên đặt hơi nghiêng sang phải để viết được dễ dàng và thuận lợi hơn. Trước khi viết bài tôi cũng luôn hỏi các em tư thế ngồi viết, cách cầm bút và cách đặt vở. Những yếu tố tưởng chừng như không quan trọng ấy nhưng thực chất đã góp phần tích cực vào việc rèn chữ cho học sinh.
 Nếu giáo viên thường xuyên chú ý đến yếu tố này không những chỉ giúp học sinh ngồi học đúng, đẹp, đảm bảo tốc độ viết mà còn giúp đảm bảo về sức khỏe cho học sinh: chống cận thị, tránh cong vẹo cột sống , Đây chính là tác dụng của yếu tố này khi dạy học sinh tập viết.
Phần thứ ba
KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận:
 Do nắm được vai trò quan trọng của môn Tập viết nên những việc làm trên đã được tôi tiến hành một cách thường xuyên trong các giờ hoc. Nếu so với đầu năm, nhiều em còn viết ẩu, viết xấu, thậm chí còn lệch dòng kẻ, sai cỡ chữ thì chữ viết của học sinh lớp tôi tương đối đều, bài viết sạch đẹp: tốc độ viết của học sinh đã nhanh hơn, tỉ lệ viết đúng, viết đẹp của học sinh cũng nâng lên. Cụ thể là:
- Nhiều em viết chữ đúng chuẩn, đẹp, sạch.
- Một số em thời gian đầu viết chữ còn nguệch ngoạc, thậm chí là không
biết viết chữ viết hoa, nhưng giờ đây, các em đã biết viết và có chữ hoa viết được đẹp.
- Chữ viết của các em tương đối đều, thẳng hàng, đúng mẫu chữ quy định
và đạt được tốc độ yêu cầu đối với học sinh lớp 2 theo từng giai đoạn.
- Vở viết của học sinh sạch và đẹp, không nhàu nát, bài viết cẩn thận.
- Lớp đạt lớp Vở sạch chữ đẹp học kì 1 lớp 2D.
Sĩ số
Loại A
Loại B
 
38 HS
 30 HS = 78,9%
 
8HS = 21,1%

Một kết quả nữa không thể không kể tới, đó là học sinh đã bắt đầu thích
viết chữ viết hoa, ứng dụng để viết chữ viết hoa đúng. 
Dưới đây là bảng khảo sát kết quả sau khi thực hiện đề tài
STT

Lớp

Sĩ
Số
Cỡ chữ
Các nét chữ
Tổng thể chữ viết hoa
Đạt
CĐ
Đạt 
CĐ
Đạt

CĐ
1
2D
38
85%
15%
>90%
<10%
85%

15%
2
2A
30
70%
30%
>80%
70%

<30%
 
 Bảng so sánh đối chiếu trước – sau khi thực hiện đê tài
STT
Cỡ chữ
Các nét chữ
Tổng thể chữ viết hoa
Đạt
CĐ
Đạt 
CĐ
Đạt
CĐ
Trước khi thực hiện

<30%

70%

<40%

Từ 50%

 30%

90%
90%
<10%

So sánh







2. Khuyến nghị:
Để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, tôi xin có một vài đề xuất
sau:
*Đối với nhà trường:
- Cung cấp hoặc hướng dẫn giáo viên cách soạn giáo án điện tử phần cách viết chữ hoa trên phần mềm PowePoin để làm phong phú hơn cho bài giảng điện tử phân môn Tập viết.
- Nên trang bị cho mỗi giáo viên bộ chữ hoa mẫu theo kiểu lật từng trang hiện ra từng nét chữ để giúp học sinh có hình ảnh cụ thể, sinh động về chữ mẫu cần viết.
- Nhà trường có thể tổ chức cuộc thi “Viết chữ đẹp” cho học sinh và
giáo viên.
- Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp, các trường có phong trào “Vở sạch – Chữ đẹp” tiêu biểu.
- Đặc biệt là đề nghị tổ chức nhiều chuyên đề Tập viết ở các cấp để cho giáo viên chúng tôi học hỏi và trao đổi lẫn nhau. Đây là việc làm rất cần mà những năm qua chưa có. 
* Đối với mỗi giáo viên:
- Đòi hỏi đầu tiên theo tôi đó là sự tận tâm, nhiệt tình, yêu thương con trẻ. Trong mỗi giờ dạy, người giáo viên phải tạo được sự say mê cho bản thân mình cũng như hứng thú cho học sinh.
- Thường xuyên rèn luyện để có chữ viết mẫu chuẩn đẹp (vì tư duy của trẻ chủ yếu là trực quan và rất thích bắt chước theo cô giáo).
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách cẩn thận, có chọn lọc và sáng tạo.
- Luôn tạo hứng thú cho các em trong các giờ học bằng nhiều hình thức như: sưu tầm tranh ảnh, chữ mẫu đẹp để phục bài học.
- Tuyên dương khen thưởng kịp thời những em có nhiều cố gắng, có tiến bộ trong việc “Rèn chữ - Giữ vở”.
Trên đây là một số suy nghĩ và những biện pháp mà tôi đã áp dụng trong
việc dạy Tập viết chữ viết hoa cho học sinh lớp 2. Tôi tin rằng, nếu mỗi giáo viên luôn có ý thức rèn luyện và tận tâm dạy bảo thì chắc chắn các em sẽ có những bài viết đẹp, sạch sẽ. Sau này, các em sẽ trở thành những con người có tính cẩn thận, kiên trì, làm việc có khoa học, xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước.
Trên đây là một vài ý kiến tôi mạnh dạn đưa ra. Tôi rất mong có sự bổ 
sung, ý kiến góp ý của Ban giám hiệu và các đồng chí giáo viên trong khối, trong trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
 Hà Nội ngày 20/2/2020
 Tác giả
 Nguyễn Thị Thúy Hồng
Bài viết của học sinh ở phân môn Tập viết.
Bài viết của học sinh ở phân môn Chính tả.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_tap_viet_chu_viet.docx