Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để dạy tốt tiết học vần 2 ở phân môn Học vần Lớp 1
- Ở HS lớp 1 phần kiến thức mới rất khó với các em, muốn nắm được kiến thức đó, HS chỉ dựa vào sự truyền đạt của GV qua các hình thức tổ chức học tập của từng tiết dạy. Hình thành kiến thức mới như thế nào, ra sao còn đòi hỏi kiến thức và kỉ năng sư phạm của người giáo viên.
- GV phải chuẩn bị bài chu đáo trước khi lên lớp, GV lên lớp phải có kế hoạch bài học, việc lập kế hoạch bài học phải thể hiện rõ nội dung và các hình thức dạy học cho phù hợp với từng đối tượng HS và phải bám sát mục tiêu yêu cầu của từng bài học.
- GV cần phải phát âm chuẩn xác, chú ý chỉnh sửa rèn cách phát âm cho HS.
VD : Những tiếng có thanh hỏi, ngã, có chứa vần dễ lẫn như : ui, uôi; ưu, ươu; an, ang; ac, at…
- Sử dụng đồ dùng trang thiết bị dạy học phải thành thạo, đúng lúc, đúng chỗ mới đạt hiệu quả cao.
- Tuỳ từng nội dung bài học mà GV linh hoạt thay đổi các hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp để giúp các em lĩnh hội tốt kiến thức và vận dụng tốt vào thực hành.
- Trong giờ dạy GV cần tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều lần, với nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt chú ý những đối tượng HS yếu kém.
- GV cần tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở động viên khen ngợi kịp thời nhằm kích thích sự hứng thú và ham mê học tập của các em.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để dạy tốt tiết học vần 2 ở phân môn Học vần Lớp 1
LÀM THẾ NÀO ĐỂ DẠY TỐT TIẾT HỌC VẦN 2 Ở PHÂN MÔN HỌC VẦN LỚP 1. I. PHẦN MỞ ĐẦU: 1/ Lí do chọn đề tài: Học Tiếng việt là nền tảng để HS học tốt các môn học khác. Khi đủ tuổi vào lớp 1 các em đã phát âm được một số âm, một số em đã được học qua mẫu giáo thì nhận diện được chữ cái, biết gọi tên các chữ cái nhưng chưa biết dùng kí hiệu để ghi lại từng âm vị. Môn tiếng việt giúp các em nắm được kiến thức về ngôn ngữ học để giao tiếp bằng ngôn ngữ, học để cảm nhận được cái hay cái đẹp của ngôn từ tiếng việt và phần nào hiêủ được những vấn đề vế cuộc sống xung quanh em. Như vậy học môn Tiếng việt ở lớp 1 là nền tảng của cấp tiểu học. Dạy học môn Tiếng việt lớp 1 có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa khoá để mở cửa kho tàng kiến thức, giúp các em học tập tốt và thực hành được các kĩ năng cơ bản như : nghe, nói, đọc và viết, là công cụ để các em vận dụng suốt đời. Đối với HS lớp 1 yêu cầu cơ bản và quan trọng nhất trong học tiếng việt là đọc thông viết thạo, đồng thời rèn cho các em các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kĩ năng nói được luyện tập kết hợp trong các kĩ năng nghe, đọc, viết. Điển hình là trong tiết 2 của một bài học vần hay tập đọc có hẳn 1 hoạt động riêng cho phần luyện nói. Trên tinh thần dổi mới PPDH theo hướng tích cực, yêu cầu luyện nói cũng nhằm phát triển ngôn ngữ, rèn kĩ năng giao tiếp cho trẻ. Tuy nhiên làm sao cho HS của mình tự diễn đạt, trao đổi những xúc cảm, cảm nghĩ, tình cảm của mình trước một sự kiện, một việc làm nào đó, làm sao cho HS bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình một cách tự nhiên trước một chủ đềđó là những trăn trở của tập thể chúng tôi trong quá trình giảng dạy môn tiếng việt. Trong đó phần luyện nói trong học vần tiết 2 cũng là một băn khoăn mà tập thể khối 1 trường TH Tân Bình chúng tôi rất mong được cùng chia sẽ với các trường bạn. 2/ Thực trạng hiện nay: a - Thuận lợi : - Giáo viên : + Giáo viên nhiệt tình công tác, mạnh dạn vận dụng phương pháp dạy học tích cực, thường xuyên học tập, trau dồi về chuyên môn nghiệp vụ . Được học tập và bồi dưỡng việc giảng dạy chương trình thay sách giáo khoa mới. + Được hướng dẫn thực hiện theo chuẩn kiến thức kĩ năng của BGD. + Được hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học theo công văn 5842/BGD - Học sinh : Đa số được học qua lớp mẫu giáo, đồ dùng học tập đầy đủ. b - Khó khăn : - Cơ sơ vật chất: chưa đáp ứng đủ yêu cầu Dạy-Học, bàn ghế không đúng qui cách, phòng học không cách âm và thiếu ánh sáng. - Còn nhiều khó khăn trong việc sử dụng ĐDDH: + Sử dụng tranh để tìm ra từ mới, giới thiệu câu ứng dụng, giải thích từ, + Sử dụng bảng phụ trong việc cung cấp kiến thức + Thiếu một số tranh ảnh minh họa cho chủ đề luyện nói. - Gia đình: Gia đình ít quan tâm đến việc học của học sinh, cứ đưa vào lớp rồi bỏ mặt cho GV - Học sinh: + Trình độ tiếp thu của HS không đồng đều. Học sinh yếu qua quan sát nhận xét từ đầu năm học đến nay là : 7 HS của khối, tỉ lệ : 6,7%. Điều này ảnh hưởng nhiều đến chất lượng học tập của các em. + Học sinh chưa kiên trì nhẫn nại; chưa mạnh dạn, tự tin trong các hoạt động học tập. + Các em nhỏ từ hoạt dộng vui chơi chuyển sang học tập theo chương trình nên một số học sinh chưa có ý thức học tập còn ham chơi. + HS mới hiểu một số kiến thức sơ giản về tiếng việt nên kĩ năng sử dụng tiếng việt trong giao tiếp còn hạn chế. - Giáo viên: + Các bước dạy học vần còn nhiều bước nhỏ nên việc nhớ thực hiện qui trình tiết dạy còn lúng túng. + Chưa phối hợp nhịp nhàng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. + Giờ dạy học vần có 2 tiết nhưng đa số giáo viên chỉ chú trọng tiết học vần 1 (dạy đọc, viết âm, vần mới) ít chú trọng đến tiết học vần 2 nhất là phần luyện nói. Vì luyeän nói cũng gặp nhiều khó khăn như: 1. Noäi dung luyeän noùi tuy ñaõ ñöôïc vaän duïng nhöng döôøng nhö vaãn coøn môùi meõ vaø ñöôïc coi laø khoù hoïc, khoù daïy bôûi noäi dung coù tính chaát “môû”. 2. Hoïc sinh lôùp 1 laø ñoái töôïng böôùc ñaàu coù kó naêng noùi song kó naêng naøy ôû moãi em moãi khaùc vaø chöa hoaøn thieän. 3. Học sinh không phải lúc nào cũng mạnh dạn, tự tin. 4. Dạy nói cho học sinh lớp 1 phải gắn với cả việc dạy đọc, dạy viết, dạy nghe. 5. Học sinh chưa hiểu rõ chủ đề luyện nói. 6. Mục luyện noùi ñöôïc saép xeáp cuoái tieát hoïc, caùc em thöôøng meät moõi, söï chuù yù khoâng cao. 7. Hoïc sinh noùi moät caùch “göôïng eùp” khoâ cöùng nhö laø traû lôøi caâu hoûi. 8. Giaùo vieân quaù nghieâm khaéc chöa taïo ñöôïc höùng thuù cho hoïc sinh, chöa taïo ñöôïc hoaøn caûnh giao tieáp toát: nhö laø lôùp hoïc phaûi traät töï, söï chuù yù cuûa caùc baïn trong lôùp Ngoài ra còn một số chủ đề lạ chưa thật sự gần với cuộc sống các em: Lễ hội, Vó bè, Đồi núi Nên các em khó hình dung để phát huy khả năng nói của mình một cách phong phú. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này chúng tôi tự tìm tòi học hỏi cộng với một số ít kinh nghiệm trong giảng dạy, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra biện pháp nhằm giúp HS học tốt môn học vần đó chính là lí do tổ chúng tôi chọn đề tài : Làm thế nào để dạy tốt tiết học vần 2 ở phân môn học vần lớp 1. II. PHẦN NỘI DUNG – BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: Để dạy tốt tiết 2 của môn học vần người giáo viên cần phải rèn luyện cho HS 4 kĩ năng cơ bản : nghe, nói, đọc và viết, riêng đối với tiết học vần 2 chúng ta cần tập trung rèn kĩ năng đọc, kĩ năng viết, và nhất là kĩ năng nói cho các em. 1/ Rèn kĩ năng đọc : - Ở HS lớp 1 phần kiến thức mới rất khó với các em, muốn nắm được kiến thức đó, HS chỉ dựa vào sự truyền đạt của GV qua các hình thức tổ chức học tập của từng tiết dạy. Hình thành kiến thức mới như thế nào, ra sao còn đòi hỏi kiến thức và kỉ năng sư phạm của người giáo viên. - GV phải chuẩn bị bài chu đáo trước khi lên lớp, GV lên lớp phải có kế hoạch bài học, việc lập kế hoạch bài học phải thể hiện rõ nội dung và các hình thức dạy học cho phù hợp với từng đối tượng HS và phải bám sát mục tiêu yêu cầu của từng bài học. - GV cần phải phát âm chuẩn xác, chú ý chỉnh sửa rèn cách phát âm cho HS. VD : Những tiếng có thanh hỏi, ngã, có chứa vần dễ lẫn như : ui, uôi; ưu, ươu; an, ang; ac, at - Sử dụng đồ dùng trang thiết bị dạy học phải thành thạo, đúng lúc, đúng chỗ mới đạt hiệu quả cao. - Tuỳ từng nội dung bài học mà GV linh hoạt thay đổi các hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp để giúp các em lĩnh hội tốt kiến thức và vận dụng tốt vào thực hành. - Trong giờ dạy GV cần tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều lần, với nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt chú ý những đối tượng HS yếu kém. - GV cần tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở động viên khen ngợi kịp thời nhằm kích thích sự hứng thú và ham mê học tập của các em. 2/ Rèn kĩ năng viết : - Trong giờ học tiếng việt ngoài việc rèn kĩ năng đọc GVcần phải rèn tốt kĩ năng viết cho HS. Bằng cách GV viết phải đúng mẫu chữ hiện hành, thật chính xác đúng qui trình để HS quan sát và thực hành theo.(từ cấu tạo của con chữ đến cách đặt bút, cách viết, cách nối nét, khoảng cách và cách bỏ dấu chú ý vị trí đứng của GV và tư thế ngồi viết và cầm viết của HS) - GV cần quan sát thật kĩ bài viết của HS để uốn nắn sửa sai kịp thời và dành khoàng thời gian thích hợp cho việc luyện viết bảng con ở tiết 1 và viết vào vở ở tiết 2. Trong quá trình dạy học vần chúng tôi nhận thấy đây là phân môn có đặc trưng rèn luyện thực hành, vì vậy phải thường xuyên luyện tập hàng ngày, bằng nhiều hình thức hoạt động khác nhau như : cá nhân, nhóm nhỏ, nhóm lớn. nhằm để phát huy tích tích cực chủ động và tự giác trong học tập của HS, rèn cho các em tính cẩn thận, kiên trì trong học tập. 3/ Rèn kĩ năng nói: Nói, là một trong 4 kỹ năng cơ bản ( nghe, nói, đọc, viết) cần rèn luyện và phải đạt được khi hoàn thành chương trình Tiếng Việt lớp 1. Rèn kỹ năng nói là giúp học sinh phát triển ngôn ngữ nói. Rèn luyện, giúp học sinh luyện nói tốt tức là cơ sở nền móng cho việc phát triển ngôn ngữ nói, viết trong suốt bậc học và cả sau này. Ngoài ra, luyện nói cho học sinh, sẽ giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Các em biết sử dụng từ, phát huy trí tưởng tượng về ngôn ngữ theo 1 chủ đề, hoàn cảnh giao tiếp. Ở học sinh lớp 1 ngôn ngữ chưa phát triển, vốn từ các em còn hạn chế, chưa biết cách dùng từ. Đặt biệt là học sinh vùng nông thôn khi hướng dẫn học sinh luyện nói theo chủ đề người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn. Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 1, chúng tôi nhận thấy: đa số học sinh khi học phần luyện nói thường nói trống không, không đầy đủ câu, các em nhút nhát, thiếu tự tin, nói không theo chủ đề yêu cầu Làm thế nào để có thể giúp học sinh vùng nông thôn học tốt phần luyện nói là câu hỏi đặt ra cho nhiều giáo viên. Điều đáng nói ở đây, trong chương trình phần gợi ý SGK qua hình vẽ hay gợi ý ở SGV rất ít có khi chỉ có 1 - 2 câu gợi ý, hình ảnh không diễn tả hết nội dung chủ đề, bởi vậy nếu người giáo viên chỉ làm theo SGK, SGV không mở rộng thêm thì học sinh khó có thể nói được. Giáo viên chuẩn bị và đưa ra hệ thống câu hỏi ngoài những gợi ý ở SGK để giúp các em tập trung những hiểu biết vốn có trong cuộc sống đề nói về chủ đề thông qua việc trả lời các câu hỏi của giáo viên. Vì vậy giáo viên phải đầu tư trong bài soạn, chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi gợi mở, có thể chẻ nhỏ các gợi ý đối với các đối tượng học sinh yếu ... thì mới có thể phát huy vốn sống, kiến thức thực tế của trẻ trong tiết học. Ví dụ : Với chủ đề " Ngày chủ nhật" -bài 69 ( SGV chỉ có 2 câu gợi ý ). Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời: Trong tranh vẽ cảnh gì? Em thấy những gì trong công viên? Ở công viên thường có những gì? Ngày chủ nhật, bố mẹ cho em đi chơi ở đâu? Em hãy kể về một ngày chủ nhật của em? Tùy theo đối tượng học sinh, giáo viên có thể cho học sinh nói theo khả năng của mình : 1 đoạn, 2 câu, 1 câu. Có thể sử dụng nhiều hình thức, nhiều phương tiện và ĐDDH giúp HS luyện nói. Làm cho các em thích nói, thích bày tỏ ý kiến, mạnh dạn bộc lộ những suy nghĩ của mình, từ đó các em sẽ nói một cách tự nhiên, không bị cưỡng ép hay rập khuôn. Đối với dạng bài hội thoại, có thể cho học sinh hỏi đáp theo cặp dưới sự dẫn dắt của giáo viên, tạo cơ hội cho cá nhân nào cũng được nói. Ví dụ: - Bài 69, chủ đề luyện nói: Ngày chủ nhật; - Bài 71, chủ đề luyện nói: “Chợ tết” giáo viên có thể sưu tầm tranh ảnh, có điều kiện thì sưu tầm các đoạn phim ngắn rồi tổ chức cho học sinh xem hình ảnh, hoạt động của mọi người hoặc cho học sinh xem đoạn phim về quang cảnh chợ tết, sau đó cho các em nói về những gì các em đã nhìn thấy. - Trong thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy một số học sinh rất ngại nói bởi tâm lí sợ đám đông, sợ nói sai, không biết bắt đầu như thế nào, vốn từ không có. Bởi vậy tôi thường xuyên gọi học sinh nhút nhát lên bảng không chỉ ở phần luyện nói mà ở các môn học khác, gợi ý, hướng dẫn, dẫn dắt học sinh trả lời từng ý nhỏ đến ý lớn. Trường hợp học sinh không nói được giáo viên gợi ý hoặc có thể nói mẫu rồi cho học sinh nhắc lại, hay nói theo câu của bạn. Chúng tôi luôn động viên khuyến khích các em một cách kịp thời, biết khen các em dù có ý đúng nhỏ. Các em thường nói cụt lủn, nói trống không, không đầy đủ câu, Để hạn chế tối đa tình trạng này, trong giảng dạy khi gọi học sinh trả lời chúng tôi hướng dẫn các em nhắc lại một phần câu hỏi trong câu trả lời . Ví dụ hỏi: “Sau khi ăn cơm trưa em thường làm gì?” thay vì học sinh trả lời “ngủ trưa”, “học bài” thì các em sẽ trả lời: “Sau khi ăm cơm trưa xong em ”. Sau vài lần sửa chắc chắn các em sẽ khắc phục được và tiến bộ hơn trước. - Qua thời gian thực hiện, sau mỗi bài học chúng tôi tự nhận xét, đúc kết rút cho mình những kinh nghiệm, tôi thấy các em học tập có phần sôi nổi, những em nhút nhát hoà nhập với bạn bè, không còn rụt rè và có khả năng nói tốt hơn, mạnh dạn phát biểu xây dựng bài. Cụ thể: Số em luyện nói tốt (nói đủ câu, đúng chủ đề) Số em chưa đạt yêu cầu ( nói chưa đủ câu, chưa đúng chủ đề) Đầu năm 31,1% 68,9% Giữa kì I 48,5% 51,5% Hiện nay 70,9% 29,1% III. PHẦN KẾT LUẬN: Với kết quả thu được, chúng tôi rút ra những kinh nghiệm sau: + Giáo viên cần nắm bắt và hiểu nội dung, mục tiêu của chương trình, ý đồ của từng chủ đề luyện nói. + Tận dụng tối đa phương tiện trực quan, phát huy năng lực quan sát của học sinh. + Hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi ý phải rõ ràng, ngắn gọn xoay quanh chủ đề luyện nói, phù hợp với mọi trình độ của học sinh trong lớp. + Xây dựng lớp học trong không khí học tập thoải mái, vui tươi, thân thiện giữa thầy và trò, giữa học sinh với học sinh. Động viên, khuyến khích, uốn nắn học sinh kịp thời ở tất cả các môn học, gần gũi trò chuyện cùng học sinh, nhất là học sinh nhút nhát. Xây dựng tốt nề nếp lớp học, phối hợp nhịp nhàng các hình thức tổ chức dạy học. + Trao đổi kịp thời những khó khăn gặp phải với tổ chuyên môn để tìm ra giải pháp tối ưu phù hợp với học sinh. Luyện nói đạt hiệu quả cũng là thành công ở tiết dạy học vần 2 của phân môn học vần mà tập thể chúng tôi thực hiện trong thời gian qua.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_lam_the_nao_de_day_tot_tiet_hoc_van_2.docx

