Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng luyện từ, viết câu và làm văn

Rèn luyện, xây dựng, tìm hiểu, mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh:

- Để học sinh có một kiến thức hiểu về ngôn ngữ tiếng Việt, việc đầu tiên là các em nghe, nói, hiểu tương đối tốt và viết đúng chính tả. Trên cơ sở đó các em sẽ dễ dàng tiếp thu kiến thức về vốn từ, nghĩa của từ.

a/. Trong phần tìm hiểu nghĩa của từ: từ đồng nghĩa, trái nghĩa, nghĩa chính, nghĩa mở rộng (nhiều nghĩa)… Để học sinh tiếp thu và vận dụng tốt kiến thức chúng ta cần phối hợp nhiều cách tổ chức cho học sinh thảo luận, sưu tầm, luyện tập vào văn cảnh cụ thể để nắm được nghĩa của nhóm từ đó. Trước đây ta nói: từ gần nghĩa, từ đồng nghĩa là hai nhóm khác nhau nhưng hiện nay nó lại là một nhóm gồm: đồng nghĩa hoàn toàn và đồng nghĩa không hoàn toàn. Như vậy để học sinh nắm vững phần này chúng ta nêu vấn đề và đưa vào ví dụ cụ thể cho hiểu ngay:

+ Đồng nghĩa hoàn toàn như: má, mẹ, u, mạ…; cha, bố, tía…

+ Đồng nghĩa không hoàn toàn như: đồi, đống, cồn, gò…; đẹp, xinh, kiều diễm…

Về từ trái nghĩa nên đưa những ví dụ thực tế từ các câu thành ngữ, tục ngữ… Cho các em thấy, từ đó giúp các em dễ nhận diện.

Ví dụ: đi ngược về xuôi; trên kính dưới nhường; đoàn kết là sống, chia rẽ là chết…(trong đó cặp từ nào là cặp từ trái nghĩa?).

docx 5 trang Thu Nga 25/08/2025 150
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng luyện từ, viết câu và làm văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng luyện từ, viết câu và làm văn

Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng luyện từ, viết câu và làm văn
Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng luyện từ, viết câu và làm văn
I. TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng luyện từ, viết câu và làm văn”
 II. LÍ DO CHỌN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM- MÔ TẢ NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
           1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm
            - Học sinh Tiểu học vốn ngôn ngữ còn khá hạn chế; song nói năng giao tiếp với bạn bè, thầy cô có thể lại tương đối tốt. Nhưng khi gặp một vấn đề nào đó trong việc phải có những từ ngữ, hình ảnh mới một chút về một chủ đề đang tìm hiểu để diễn đạt các em sẽ lúng túng ngay. Có thể nêu ra đây một vài chủ đề về mở rộng vốn từ mà học sinh gặp khó khăn khi hình thành vốn từ mới như: hòa bình, hữu nghị-hợp tác; Công dân; Trật tự- an ninh; Truyền thống; (lớp 5). Về nội dung khác như: nghĩa của từ, từ loại có phần dễ tiếp thu hơn đối với học sinh.
           - Tiếng Việt của chúng ta do bị ảnh hưởng lớn rất nhiều từ ngôn ngữ Hán bởi yếu tố lịch sử từ bao đời nay cho nên trong cuộc sống giao tiếp, việc dùng từ Hán Việt không phải là nhỏ. Tuy nhiên với khả năng ngôn ngữ của các em và vốn từ Hán Việt được cung cấp theo chương trình còn ít, bên cạnh đó để hiểu và sử dụng đúng từ Hná Việt cũng không dễ vì vậy mà khi tìm hiểu từ mới gặp các từ ngữ này học sinh sẽ gặp khó khăn ngay. 
            - Nói đến việc viết câu, làm văn, viết một văn bản thì việc dùng các dấu câu là rất quan trọng. Nhiều em thực hiện việc này khá tốt, đồng thời cũng còn không ít học sinh dùng dấu còn lung tung đôi khi đặt sai vị trí trong câu, dùng dấu cầu tùy tiện cho nên khi học lên sẽ khó hiểu, hiểu một cách khác đi đôi khi còn làm câu văn trở nên thiếu nghĩa hoặc tối nghĩa.
           Từ những vấn đề thực tế trong dạy học, tôi thấy rằng cần có những định hướng, giải pháp giúp học sinh thực hiện tốt những vấn đề nêu trên.
           Theo khảo sát những năm trước số lượng học sinh găp khó trong học tập ở môn LTVC và TLV như sau: 
Năm học
Sĩ số học sinh
Điểm KTHK I chưa tốt  (phần LTVC + TLV )
2021- 2022
43
18
 
Trong quá trình giảng dạy tôi đã có một vài kinh nghiệm trong việc giúp học sinh gặp khó trong việc luyện từ, viết câu và làm văn của học sinh. Vì vậy ,tôi chọn đề tài này với mục đích nâng cao chất lượng qua mỗi lần kiểm tra và xóa dần học sinh gặp khó trong học tập đồng thời giúp học sinh hình thành kỹ năng, sử dụng thành thạo từ vựng tiếng Việt trong viết câu và làm văn.
 2. Mô tả nội dung sáng kiến kinh nghiệm              
              Ở tiểu học, môn Tiếng Việt có vai trò nền tảng cho học sinh rèn luyện, trau dồi, phát huy vốn ngôn ngữ mẹ đẻ. Chính vì vậy mà khi các em đã đọc viết tương đối thông thạo ở các lớp 2-3 thì việc hướng dẫn các em mở rộng vốn từ, sử dụng vốn từ vào việc rèn luyện viết câu, giao tiếp, trao đổi ở các lớp này và các lớp 4- 5 giai đoạn tiếp theo là điều rất quan trọng.
             Những giải pháp tôi đã áp dụng và thực hiện có hiệu quả là : 
- Rèn luyện, xây dựng, tìm hiểu, mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh.
- Rèn luyện viết câu, làm văn.
          Chính nhờ những giải pháp này mà sau mỗi năm học, học sinh gặp khó trong học tập ở lớp tôi đã tiến bộ rất nhiều và bắt đầu ham thích học phân môn Luyện từ và câu, Tập làm văn nhiều hơn.
 III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Rèn luyện, xây dựng, tìm  hiểu, mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh:
- Để học sinh có một kiến thức hiểu về ngôn ngữ tiếng Việt, việc đầu tiên là các em nghe, nói, hiểu tương đối tốt và viết đúng chính tả. Trên cơ sở đó các em sẽ dễ dàng tiếp thu kiến thức về vốn từ, nghĩa của từ.
a/. Trong phần tìm hiểu nghĩa của từ: từ đồng nghĩa, trái nghĩa, nghĩa chính, nghĩa mở rộng (nhiều nghĩa) Để học sinh tiếp thu và vận dụng tốt kiến thức chúng ta cần phối hợp nhiều cách tổ chức cho học sinh thảo luận, sưu tầm, luyện tập vào văn cảnh cụ thể để nắm được nghĩa của nhóm từ đó. Trước đây ta nói: từ gần nghĩa, từ đồng nghĩa là hai nhóm khác nhau nhưng hiện nay nó lại là một nhóm gồm: đồng nghĩa hoàn toàn và đồng nghĩa không hoàn toàn. Như vậy để học sinh nắm vững phần này chúng ta nêu vấn đề và đưa vào ví dụ cụ thể cho hiểu ngay:
+ Đồng nghĩa hoàn toàn như: má, mẹ, u, mạ; cha, bố, tía
+ Đồng nghĩa không hoàn toàn như: đồi, đống, cồn, gò; đẹp, xinh, kiều diễm
          Về từ trái nghĩa nên đưa những ví dụ thực tế từ các câu thành ngữ, tục ngữ Cho các em thấy, từ đó giúp các em dễ nhận diện. 
    Ví dụ: đi ngược về xuôi; trên kính dưới nhường; đoàn kết là sống, chia rẽ là chết(trong đó cặp từ nào là cặp từ trái nghĩa?).
            Đối với từ nhiều nghãi thì phải nhận diện được nghĩa nào là chính nghĩa nào là mở rộng. Có thể nêu một vài câu do giáo viên đặt ra cho các em nhận diện sau đó tự hoạt động thực hành phát hiện qua các bài tập. Ví dụ hai câu sau cho học sinh tự tìm nghĩa chính và nghĩa mở rộng của từ “nhà” (có thể thảo luận hoặc làm việc cá nhân):
+ Cái nhà này mới xây rất đẹp. 
+ Bà nhà tôi vừa đi chợ.
- Sau khi giúp cho học sinh nắm được phần chính về nghĩa của từ(từng bài), giáo viên tổ chức cho học sinh thi đua thực hành củng cố nắm vững kiến thức qua các bài tập(tùy bài tập, tùy khả năng học sinh có thể làm cá nhân hay 
nhóm nhỏ, hình thức khác).
b/. Như đã nói ở trên việc mở rộng vốn từ cho học sinh tương đối khó bởi vì khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Tuy nhiên cần có những hình thức tổ chức hoạt động học tập phù hợp cũng sẽ giải quyết được vấn đề này. Một số chủ đề có phần khó hiểu đối với các em, giáo viên định hướng về mặt ngữ nghĩa của chủ đề để học sinh dễ tiếp thu và mở rộng vốn từ theo từng bài tập đã xây dựng.
          Đa số các chủ đề có vốn từ Hán Việt khá nhiều làm cho học sinh gặp khó khăn, tuy vậy ta nên chọn giải pháp thực hành từ thực tế giao tiếp sẽ giúp các em nắm bắt ngay. Xin nêu ra đây một số ví dụ để định hướng thực hiện:
+ Chủ đề “công dân”; giáo viên tổ chức cho học sinh tìm nghĩa của từ công dân. Qua các bài tập, học sinh sẽ thực hành về nhiệm vụ của công dân, một công dân phải làm gì cho quê hương, đất nước Hay tìm các từ ngữ liên quan đến người công dân Học sinh trao đổi, nhận xét lẫn nhau trong hoạt động học tập từ đó giúp các em không những khắc sâu kiến thức mà còn giúp nâng cao khả năng mở rộng vốn từ của mình.
+ Chủ đề “truyền thống” là một chủ đề tương đối khó vì vậy cần có sự hợp tác giữa thầy và trò; giữa các em với nhau trong thực hành thì mới tạo cho các em học tốt chủ đề này. Nói đến truyền thống là nói đến những giá trị có lịch sử, sự lưu truyền từ nhiều thế hệ cho nên cần xây dựng các hoạt động học tập nhẹ nhàng tránh tạo các khó hiểu cho học sinh. Nên cho nêu ra những hoạt động có tính truyền thống của nhân dân ta từ cuộc sống sẽ dễ giúp các em hiểu sâu hơn về chủ đề này. 
- Trong một bài học về mở rộng vốn từ thường có bài tập về viết một đoạn văn ngắn nói về nội dung đó, đây là dạng bài tập tổng hợp vừa củng cố, vừa vận dụng vốn từ và thực hành viết câu làm văn cho nên giáo viên có sự chuẩn bị trong việc uốn nắn các em về cách dùng từ, viết câu và diễn đạt nội dung. 
          Còn một số chủ đề có nội dung tương đối khó, giáo viên có thể gợi mở, định hướng sau cho phù hợp thực tế của học sinh mình.
  2. Rèn luyện viết câu, làm văn:
 a/. Về mặt ngữ pháp, khi viết một câu đơn theo yêu cầu của bài tập, hầu hết các em đều làm được. Thường thì các em hay mắc lỗi về dấu câu như: quên ghi dấu, câu cảm và câu cầu khiến không ghi dấu chấm than, câu hỏi thì không chấm hỏi Có những đoạn văn các em đánh dấu không đúng chỗ tạo ra câu què câu cụt giáo viên nên sửa ngay chỗ đó, hướng dẫn làm lại để rút kinh nghiệm. Nên nêu vài câu hỏi liên quan đến lỗi măc phải trong viết câu để nhắc các em nhớ khắc phục. Nên ghi vài lời nhắc dưới bài tập đó để học sinh lưu ý
            - Đối với việc học và thực hành viết câu ghép thì học sinh còn hạn chế nhiều: thứ nhất các em ít tìm ra câu văn có hình ảnh mới mẻ; thứ hai câu ghép chưa đủ từ 2 vế trở lên có đủ các cụm C- V. Ta có thể giúp các em bằng các hướng:
            + Gợi mở cho các em tìm tòi, suy nghĩ để có cái mới hơn thông qua hoạt động nhóm, hoạt đông giao tiếp trong và ngoài lớp
              + Khi học sinh viết câu ghép chưa đúng cho học sinh nhận xét lẫn nhau phát hiện và cách sửa lại.
         Ví dụ : Tuy nhà bạn Lan rất xa nhưng vẫn đi học đều. Vậy câu này sai chỗ nào? Cho nhận xét sửa ngay, rõ ràng câu này chưa đủ 2 vế và sửa lại là: Tuy nhà bạn Lan rất xa nhưng bạn ấy vẫn đi học đều.
 b/. Một bài văn thường có 3 phần : Mở bài, thân bài và kết bài. Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác rõ ràng đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức về vốn từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản Muốn học sinh làm tốt bài văn giáo viên cần giúp học sinh một số việc sau :
             + Nắm vững cấu tạo bài văn gồm những phần nào, mỗi phần làm những việc gì ? Điều này không khó đối với học sinh song phải nhớ và nắm kĩ.
            + Mỗi thể loại, mỗi dạng bài cần thể hiện điều gì? Khi làm văn miêu tả thì xác định đối tượng tả là cái gì, cần sử dụng từ ngữ ra sau, các ý bài văn liên kết với nhau như thế nào ? Hay kể chuyện, thuật chuyệntranh luận trao đổi thì dùng lời nói, lí lẽ sao cho phù hợp lôi cuốn người nghe.
Trong mỗi bài văn của mỗi cá nhân phải tìm được cái mới, cái hay, cái riêng, cái cảm xúc của mình qua đó xây dựng lại thành một khối hoàn chỉnh thì lúc đó bài văn mới có cái hồn mà khi đọc lên sẽ có nhiều nét hay riêng, sáng tạo riêng.
          IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 
       Sau một năm học áp dụng phương pháp hướng dẫn học sinh cách đặt câu , đánh giá rút kinh nghiệm tôi thấy kết quả học tập của học sinh dần tiến bộ, thái độ học tập tích cực hơn. Các em chăm chỉ học tập hơn, biết cách đặt câu và câu văn ngày càng hay hơn. Từ đó, các em học tốt môn tập làm văn và các môn học khác giúp các em phấn khởi và tự tin trong học tập, được sự đồng tình và ủng hộ của phụ huynh nhiều hơn. Sau đây là kết quả năm gần đây mà lớp tôi chủ nhiệm: 
Năm học
    Sĩ số
Điểm KTHK I chưa tốt  (phần LTVC + TLV )
Điểm KTCN  chưa tốt (phần LTVC+ TLV )
2021-2022
43
18
0
 
         - Học sinh viết câu đúng, dùng từ chính xác và làm được đoạn văn, bài văn đúng yêu cầu đặt ra.
          - Học sinh biết rèn luyện, trau dồi, phát huy vốn ngôn ngữ mẹ đẻ.
- Học sinh viết được đoạn văn, bài văn đúng chủ đề,  văn hay, sáng tạo
         Điều quan trọng là học sinh tự tin hơn, ham thích học môn Tiếng Việt hơn nhất là môn LTVC và môn Tập làm văn.
 V. KHẢ NĂNG NHÂN RỘNG: 
           Qua thời gian giảng dạy tôi đã áp dụng kinh nghiệm dạy học sinh đặt câu chất lượng lớp tôi được nâng lên. Tôi đã phổ biến kinh nghiệm trong khối 4+ 5 được giáo viên trong khối thống nhất cao và áp dụng rộng rãi đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó tôi còn chia sẻ SKKN với các bạn  đồng nghiệp trường khác và được các bạn nhiệt tình áp dụng đạt kết quả tốt như :
           + Cô Lê Thị Xinh : Trường TH Lộc Hòa B
          + Thầy Phạm Ngọc Tài: Trường TH Phú Quới C
- Để làm những việc nêu trên, giáo viên cần có sự phối hợp giữa rèn luyện cho học sinh vốn ngôn ngữ qua từng bài học. Tạo cho học sinh các thói quen quan sát, đánh giá nhìn nhận một sự việc, một vấn đề nào đó và thể hiện điều đó bằng vốn từ ngữ của mình. Tránh và hạn chế tối đa việc sử dụng từ không đúng lúc, không đúng chỗ. Điều chỉnh kịp thời những lỗi về việc dùng từ, viết câu, làm văn.
- Tổ chức và đa dạng các hình thức học tập, xây dựng cho các em có thói quen tự học, tự tìm tòi cái mới, trong việc học tiếng Việt. Nâng cao việc hợp tác trong học tập để các em đánh giá lẫn nhau quá trình làm văn, học cái hay, cái sáng tạo, điều chỉnh sửa chữa lỗi mắc phải.
 - Phối hợp tốt việc học tiếng Việt giữa các phân môn và giữa các môn 
học với nhau. Ngoài ra, sáng kiến này có thể áp dụng cho tất cả các đối tượng giáo viên và học sinh lớp 4, 5 vì kinh nghiệm trên rất gần gũi, dễ thực hiện ở bậc tiểu học. 
 VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
            1. Kết luận 
            Để học sinh tích lũy một số vốn từ ngữ, hiểu được một lượng kiến thức nhất định về ngữ nghĩa tiếng Việt và vận dụng, sử dụng vào các bài tập thực hành cũng như hoạt động giao tiếp trong cuộc sống, đòi hỏi các em luôn học tập không ngừng. Việc sử dụng vốn từ tiếng Việt, các kiến thức về câu, về làm văn trong một quá trình phối hợp vận dụng chặt chẽ bởi các hình thức học tập phù hợp sẽ nâng cao khả năng học tiếng Việt của học sinh. Việc đổi mới các phương pháp dạy sao cho phù hợp sẽ là điều rất quan trọng trong tiến trình dạy học của thầy và trò. Chính những vấn đề mà người thầy cần phải linh hoạt trong quá trình tổ chức dạy học cũng tạo ra một không gian mở trong hoạt động dạy- học giúp các em tiếp thu tốt việc học tiếng Việt của mình.
          Hiện nay việc cung cấp vốn từ cho học sinh không còn theo dạng bài học từ ngữ như chương trình cũ mà mỗi bài học là những bài tập thực hành không những giúp các em tiếp nhận vốn từ mới mà còn định hướng cho các em thông qua các bài thực hành đó để mở rộng, bổ sung một số vốn từ mới, các thành ngữ, tục ngữ, ca dao theo từng chủ đề mà các em đang học. Đây chính là cơ hội để học sinh sáng tạo trong việc tìm tòi, học hỏi, tích lũy, hiểu rộng hơn vốn từ ngữ cho mình.
          2. Kiến nghị 
           a. Về phía nhà trường
           * Cần quan tâm chỉ đạo sâu sát hơn nữa, phải chăm lo, đôn đốc các giáo viên thực hiện tốt các công tác đổi mới PPDH.
           * Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giáo viên.
           * Chăm lo hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục, tạo mọi điều kiện để xây dựng cơ sở vật chất, đảm bảo các điều kiện tốt nhất cho giáo viên và học sinh thực hiện đổi mới PPDH.
          b. Về phía giáo viên
           * Không ngừng nâng cao trình độ bản thân bằng cách tự học, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp qua các buổi sinh hoạt chuyên môn.
          * Soạn giảng theo hướng đổi mới tích cực PPDH.
          * Cần phối hợp nhiều hình thức dạy học, gây hứng thú học tập cho học sinh.
          * Cần tạo không khí học tập thoải mái giúp học sinh tiếp thu bài đạt hiệu quả cao trong học tập.
            Trên đây là một số giải pháp giúp học sinh rèn kỹ năng luyện từ, viết câu và làm văn mà tôi đã áp dụng vào thực tế, kết quả đạt được rất khả quan. Tôi rất mong nhận được sự góp ý nhiệt tình của đồng nghiệp để sáng kiến đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
                                                             Thạnh Qưới, ngày 7 tháng 4 năm 2022
      HIỆU TRƯỞNG                                                   Người viết
       Lê Văn Trung                                                Phan Thị Lan Thảo

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_ren_luyen_ky_nang_luyen.docx