Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu Lớp 5
Các nguyên tắc đặc thù của phương pháp dạy – học Tiếng Việt bao gồm : Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy; Nguyên tắc hướng hoạt động vào giao tiếp. Nguyên tắc chú ý tới trình độ tiếng Việt vốn có của học sinh. Nguyên tắc so sánh và hướng tới hai kĩ năng nói và viết và nguyên tắc đảm bảo mối quan hệ hữu cơ giữa dạy học tri thức và rèn luyện kỹ năng.
Trước hết, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy. Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là sản phẩm của tư duy và tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Quá trình người học nhận thức các khái niệm và qui tắc của ngôn ngữ, vận dụng nó vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của giao tiếp cũng chính là quá trình người học tiến hành các thao tác tư duy theo một định hướng. Quá trình này không chỉ hình thành các kỹ năng ngôn ngữ mà còn hình thành các kỹ năng và phẩm chất tư duy. Quá trình hoạt động tư duy và hoạt động ngôn ngữ là hai quá trình có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ tới mức “Tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Nói một cách khác, muốn rèn luyện ngôn ngữ thì tất phải rèn luyện tư duy và ngược lại. Để hai quá trình được thực hiện một cách có ý thức, có kế hoạch, có tính toán, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với tư duy được cụ thể hoá thành các yêu cầu sau đây:
- Dạy học tiếng phải gắn liền với phương pháp rèn luyện tư duy.
- Dạy học tiếng phải gắn liền với bồi dưỡng phẩm chất tư duy, tư duy hình tượng và tư duy logic.
- Dạy học tiếng phải làm cho học sinh thông hiểu ý nghĩa các đơn vị ngôn ngữ gắn chúng với nội dung hiện thực mà chúng phản ánh, đồng thời phải thấy được giá trị của chúng trong hệ thống tiếng Việt. Phải chuẩn bị tốt nội dung các đề tài cho các bài tập luyện nói, liên kết gần gũi với đời sống của các em.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu Lớp 5

h nhầm lẫn đáng tiếc giữa hai hiện tượng này”. c. Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Biện pháp này thực ra ít khi vận dụng bởi nếu học sinh đã hiểu đúng nghĩa của từ, thuộc nhớ được thì không cần thiết phải dùng đến cách dựa vào yếu tố từ loại, tuy nhiên đối với một số học sinh trung bình và yếu giáo viên có thể kết hợp cả 3 biện pháp. Nếu trong thực tế hàng ngày học sinh có thể bắt gặp hiện tượng một từ nào đó phát âm gần nhau nhưng xét về từ loại khác nhau thì kết luận đó là hiện tượng đồng âm. Chẳng hạn khi chơi đùa học sinh hò reo đồng thanh để cổ vũ cho một học sinh được mệnh danh là “cụ cố” vì em này nhỏ, yếu: “Cố lên cụ cố.ơi !” “Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ. Đây là hiện tượng đồng âm dễ nhận diện. Tùy trường hợp những từ phát âm giống nhau nhưng cùng từ loại (cùng loại danh từ, động từ, tính từ) thì phải vận dụng biện pháp giải nghĩa từ trong văn cảnh đồng thời xét xem các từ đó có mối quan hệ về nghĩa hay không để tránh nhầm lẫn những từ đồng âm với từ nhiều nghĩa hoặc quan hệ đồng nghĩa nếu có. Trong trường hợp này thông thường dựa vào ngữ cảnh để nhận biết nghĩa của từ đồng âm. Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hóa nghĩa của từ và giúp con người sử dụng ngôn ngữ tránh sự nhầm lẫn. VD: - đồng tiền – cánh đồng - con cò – cò súng Xét câu văn sau: “Hôm nay tôi đánh rơi mười nghìn đồng ngay đoạn cánh đồng làng”. Các từ trong câu có mối quan hệ với từ ‘đồng’ thứ nhất gồm “đánh rơi” “mười nghìn”, nếu chỉ dừng lại ở đánh rơi 10 nghìn thì người đọc chưa rõ mười nghìn đồng tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định rõ giá trị số tiền đánh rơi. Có từ “đồng” ngay sau cụm từ “đánh rơi mười nghìn đồng” thì ta hiểu rõ số tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt Nam và xác định được giá trị của nó. Vậy từ “đồng” thứ nhất là đơn vị tiền Việt Nam, từ “đồng” thứ 2 nằm trong mối quan hệ với từ “qua”, “cánh”, “làng”, “đồng” trong “cánh đồng” là khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa hoặc hoa màu. Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với từ nhiều nghĩa, hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại. Từ “đi” trong các trường hợp sau đều là động từ: đi bộ; đi chơi; đi ngủ; đi máy bay. Vì vậy gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì học sinh không được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa mà phải suy nghĩ thật kĩ. Giải nghĩa chính xác các từ đó trong văn cảnh, tìm ra điểm khác nhau hoàn toàn hay giữa chúng có sự liên hệ với nhau về nghĩa. Trong một số bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi, có một số trường hợp giống nhau về âm thanh nhưng khó phân biệt hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa. VD: Các từ trong mỗi nhóm dưới đây có quan hệ như thế nào? a) Đánh cờ, đánh giặc, đánh trống b) Trong veo, trong vắt, trong xanh c) Thi đậu, xôi đậu, chim đậu trên cành Xét về từ loại thì nhóm (c) các từ “đậu” có quan hệ đồng âm với nhau vì đậu “trong thi đậu” là tính từ (đỗ, trúng tuyển) “đậu” trong “xôi đậu” là danh từ (chỉ một loại quả, củ dùng làm lương thực, thức ăn), “đậu” trong “chim đậu trên cành” là động từ “nghỉ, tạm dừng lại”. Ở nhóm (a), các từ “đánh” đều là động từ nhưng xét về nghĩa các từ “đánh cờ” (một trò chơi), “đánh giặc” (chiến đấu với kẻ thù bằng nhiều cách) và “đánh trống” (dùng dùi hoặc tay đánh vào mặt trống cho phát ra âm thanh) thì nghĩa của chúng có liên quan đến nhau, đều tác động đến một sự vật khác, làm cho sự vật đó có sự thay đổi, vì vậy các từ “đánh” ở nhóm (a) có quan hệ nhiều nghĩa. Tuy nhiên các từ “trong” ở nhóm (b) cũng là các từ có cùng từ loại (tính từ). Song chúng lại có quan hệ đồng nghĩa với nhau. Trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi để giúp học sinh làm tốt các bài tập như trên, giáo viên yêu cầu các em luôn nắm chắc nghĩa của từ và suy xét kĩ lưỡng nghĩa của các từ đó, không được bộp chộp ngộ nhận hoặc mới chỉ hiểu nghĩa mang máng mà đã vội kết luận mối quan hệ giữa các từ đã cho. d. Tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa Sau các bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cùng với các bài luyện tập, có thể giúp học sinh rút ra sự so sánh như sau : - Điểm khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa Từ đồng âm Từ nhiều nghĩa - Là hai hoặc nhiều từ có cùng hình thức ngữ âm: (hòn) đá và đá (bóng) - Các nghĩa hoàn toàn khác biệt nhau không có bất cứ mối liên hệ gì: Ví dụ: (hòn) đá chỉ chất rắn có sẵn trong tự nhiên, thường thành tảng, hòn rất cứng. Còn đá (bóng) chỉ hành động dùng chân hất mạnh vào một vật nhằm đưa ra xa hoặc làm tổn thương. - Không giải thích được bằng cơ chế chuyển nghĩa. - Là một từ nhưng có nhiều nghĩa: (hòn) đá và (nước) đá. - Các nghĩa có mối liên quan với nhau. Ví dụ: hòn (đá) chỉ chất rắn có trong tự nhiên, thường thành tảng, khối vật cứng. Còn (nước) đá chỉ nước đông cứng lại thành tảng giống như đá. - Do cơ chế chuyển nghĩa tạo thành. e. Tập hợp nghiên cứu các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa - Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ + Đối với từ đồng âm: phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: Cánh đồng (1) – tượng đồng (2) – một nghìn đồng(3). Bài tập này, giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ “đồng” ở mỗi trường hợp: “đồng”(1) chỉ khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để cày cấy, trồng trọt. “đồng” (2) là kim loại. Nghĩa của các từ “đồng” khác nhau, chúng là những từ đồng âm. (Dùng tranh ảnh minh họa) + Đối với từ nhiều nghĩa: Trong những câu sau câu nào có từ “chân” mang nghĩa gốc và câu nào có từ “chân” mang nghĩa chuyển ? Chân: a. Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân b. Bé đau chân Đối với bài tập trên giáo viên yêu cầu học sinh nêu được nghĩa của từ “chân” trong mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc “chân” trong câu (a) chỉ một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng – nghĩa chuyển, “chân” trong câu (b) chỉ một bộ phận của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể – nghĩa gốc. - Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hoặc nhiều nghĩa + Đối với từ đồng âm: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm: bàn, cờ, nước Ở bài tập này, hướng dẫn học sinh với mỗi từ cần đặt ít nhất là hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau. VD: Bàn: - Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm. - Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện làm ăn. + Đối với từ nhiều nghĩa: Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “đứng” Đứng: Nghĩa 1: ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền Nghĩa 2: Ngừng chuyển động Giáo viên có thể gợi ý nghĩa 1, nói tới một tư thế của người hoặc động vật. Nghĩa 2 nói tới trạng thái của một đồ vật hiện tượng, học sinh có thể đặt câu. Nghĩa 1: Chúng em đứng nghiêm trang chào cờ. Nghĩa 2: Kim đồng hồ đang chạy, bỗng đứng lại. - Dạng 3: Phân biệt quan hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa VD: Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng âm, những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau? Vàng: Giá vàng nước ta tăng đột biến. (1) Tấm lòng vàng. (2) Ông tôi mua một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản. (3) Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của các từ “vàng” rồi xác định mối quan hệ giữa chúng. Đáp án: từ “vàng” ở câu 1,2 có quan hệ nhiều nghĩa, từ “vàng” ở câu 3 có quan hệ đồng âm với từ “vàng” ở câu 1 và 2. - Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho + Đối với từ đồng âm: Ví dụ: Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B A B 1. Sao trên trời có khi tỏ khi mờ. 2. Sao lá đơn này thành ba bản. 3. Sao tẩm chè. 4. Sao ngồi lâu thế ? 5. Đồng lúa mượt mà sao! a. Chép lại hoặc tạo ra văn bản khác theo đúng bản chính b. Tẩm một chất nào đó rồi sấy khô c. Nêu thắc mắc không biết rõ nguyên nhân d. Nhấn mạnh mức độ làm ngạc nhiên, thán phục e. Các thiên thể trong vũ trụ Đáp án: 1- e; 2- a; 3- b; 4 – c; 5- d + Đối với từ nhiều nghĩa: Ví dụ: Tìm ở cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở cột A A B 1. Bé chạy lon ton trên sân 2. Tàu chạy băng băng trên đường ray 3. Đồng hồ chạy đúng giờ 4. Dân làng khẩn trương chạy lũ a. Hoạt động của máy móc b. Khẩn trương tránh những điều không may sắp xảy đến c. Sự di chuyển nhanh của phương tiện giao thông d. Sự di chuyển nhanh bằng chân Đáp án: 1- d; 2 – c; 3 – a; 4- b Đối với những bài tập trên, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận để nối những cụm từ hoặc câu với nghĩa thích hợp ở những trường hợp dễ nhận thấy trước. Trường hợp khó còn lại nếu học sinh chưa hiểu nghĩa các em có thể vận dụng cả phương pháp loại trừ. Ở cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên. Bên cạnh đó, mỗi nội dung lại có một số dạng bài tập riêng. g. Tự tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cuộc sống hàng ngày để có thêm vốn từ trong giảng dạy Ví dụ * Đối với từ đồng âm: bạc - Cái nhẫn bằng bạc - Đồng bạc trắng hoa xòe - Cờ bạc là bác thằng bần - Ông Ba tóc đã bạc - Đừng xanh như lá, bạc như vôi - Cái quạt máy này phải thay bạc * Đối với từ nhiều nghĩa: chạy - Cầu thủ chạy đón quả bóng - Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại - Tàu chạy trên đường ray - Đồng hồ này chạy chậm - Mưa ào xuống, không kịp chạy lúa phơi ngoài sân - Nhà ấy chạy ăn từng bữa - Con đường mới mở chạy qua làng tôi - Cầm lá thư này lòng hướng vô Nam (bài hát) 3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp - Coi trọng việc dạy các tiết học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Học sinh cần nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa thông qua các bài học, muốn vậy giáo viên cần nắm sâu kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa và ph¬ng ph¸p d¹y (Chú ý PP dạy phân hóa đối tượng học sinh) - Tổ chức dạy trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức. - Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. - Giáo viên cần giúp học sinh tự tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. - Tìm hiểu nghiên cứu, thống kê các dạng bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. - Giáo viên cần tự tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cuộc sống hàng ngày để có thêm vốn từ trong giảng dạy. 3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Giữa giải pháp và biện pháp có mối quan hệ khăng khít với nhau, không tách rời nhau, nó hỗ trợ, bổ sung cho nhau để tiết học được diễn ra một cách nhẹ nhàng mà hiệu quả lại cao. Không có giải pháp hay biện pháp nào là tối ưu, vì vậy giáo viên cần kết hợp các giải pháp và biện pháp với nhau trong giảng dạy, tùy tình hình thực tế, đối tượng học sinh lớp mình để vận dụng và thực hiện. 3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu So với chất lượng học sinh học cùng nội dung ở những năm học trước thì năm học này đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Các em học sinh lớp tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy, sau khi áp dụng kinh nghiệm, qua quá trình hướng dẫn học sinh những phương pháp phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa như trên, tôi thấy các em hoạt động tích cực, có tiến bộ rõ rệt, có hứng thú học tập và yêu thích giờ học Luyện từ và câu hơn. Qua nghiên cứu, thăm dò cho thấy: sau một thời gian vận dụng các biện pháp trên, qua việc khảo sát 30 bài làm của 30 em học sinh vào giữa học kì I đã cho tôi thu được một kết quả khả quan hơn, cụ thể là: - Học sinh nắm và phân biệt được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa 100%. - Học sinh có khả năng đặt câu để phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa 96,7% 4. Kết quả Trên đây là thử nghiệm của bản thân tôi trong nhiều năm dạy học lớp 5. Đặc biệt là năm học 2014 - 2015. Kết quả tuy chưa thực sự cao, song so với chất lượng học sinh học cùng nội dung ở năm học trước đã có sự chuyển biến tích cực. Cụ thể như sau: Năm học TSHS Giỏi Khá T. Bình Yếu 2012 - 2013 31 7 = 22,6 % 09 = 29,0% 14 = 45,2% 01em – 3,2% 2013 - 2014 30 09 = 30,0% 10 = 33,3 11= 36,7% 0 2014 - 2015 (Tính đến HKI) 30 Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Dưới 5 điểm 01 em- 3,4% III. Kết luận, kiến nghị 1. Kết luận Dạy các nội dung về nghĩa của từ thực sự không đơn giản, nhất là phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Trong quá trình giảng dạy, tổ chức cho học sinh nắm được kiến thức, bản thân tôi cũng đã cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi và lựa chọn sao cho học sinh nắm kiến thức mới và vận dụng trong học tập cũng như trong cuộc sống một cách hiệu quả. Để giúp HS phân biệt được từ đồng âm với từ nhiều nghĩa và làm đúng được yêu cầu của bài tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, trong quá trình dạy học người giáo viên cần: - Giúp học sinh xác định rõ các đặc điểm, cấu tạo của chúng về hình thức và bản chất - Phần từ đồng âm và từ nhiều nghĩa có nhiều từ học sinh dễ nhầm lẫn và khó xác định là đồng âm hay nhiều nghĩa giáo viên cần giúp các em nhấn mạnh ở khái niệm về từ đồng âm: Chúng giống nhau là có hình thức âm thanh giống nhau nhưng đối với từ đồng âm thì nghĩa của từ hoàn toàn khác nhau; còn từ nhiều nghĩa thì ý nghĩa của các từ đó có mối liên hệ với nhau. Giáo viên chú ý hướng dẫn học sinh phân biệt nghĩa sau đó mới đưa ra kết luận. - Tạo mọi điều kiện giúp HS được bộc lộ cách hiểu của mình về từ nhiều nghĩa và từ đồng âm. - Qua các bài tập học sinh thực hành về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa giáo viên cần cho các em tự kiểm tra, kiểm tra lẫn nhau về kết quả mình đã làm được. 2. Kiến nghị - Đối với nhà trường: Trang bị nhiều sách tham khảo về phân môn Luyện từ và câu, đặc biệt là tài liệu hướng dẫn phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. - Đối với giáo viên: thường xuyên nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn liên quan để giúp học sinh học tập đạt hiệu quả cao. - Đối với học sinh: học phải kết hợp với luyện tập thực hành, chỗ nào chưa rõ cần hỏi giáo viên ngay tại lớp, tránh dấu dốt, học cho qua chuyện Trên đây bằng thực tiễn và tâm huyết của bản thân đã đưa ra một vài kinh nghiệm khi dạy về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5. Trong quá trình thực hiện sẽ không tránh khỏi những thiếu sót rất mong sự góp ý của Hội đồng sáng kiến kinh nghiệm các cấp để tôi có thể hoàn thiện hơn phương pháp dạy học của mình nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục hiện nay. Buôn Trấp, tháng 01 năm 2015 Người viết Võ Thị Kim Yến NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG .................................................................................................................................................................................. P.CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN ................................ CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN (Ký tên, đóng dấu) TÀI LIỆU THAM KHẢO TT Tên tài liệu Tác giả 1 Hướng dẫn số 5842/BGDĐT-VP V/v Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học giáo dục phổ thông. Bộ Giáo dục và Đào tạo 2 Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ năng các môn ở Tiểu học (lớp 5). NXB Giáo dục 3 Tạp chí Thế giới trong ta (Chuyên đề 62 + 63) Tạp chí số ra tháng 4 + 5 năm 2007 4 Thông tư số 30/2014/TT- BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 Bộ Giáo dục và Đào tạo 5 Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 – Tập 1 NXB Giáo dục năm 2006 6 Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5 – Tập 1 NXB Giáo dục năm 2007 7 Vở bài tập Tiếng Việt lớp 5 – Tập 1 NXB Giáo dục năm 2014
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_phan_biet_tu_dong_am_va.doc