Sáng kiến kinh nghiệm Giúp giáo viên dạy tốt môn Tập đọc Lớp 5
Như chúng ta đã biết bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên giúp học sinh bước đầu hình thành nhân cách, kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cơ bản làm tiền đề cho các bậc học sau. Ngoài những nhiệm vụ chính trên ra nhiệm vụ bậc tiểu học hiện nay là phát huy tối đa những mặt mạnh của mỗi cá nhân học sinh. Để đạt được những điều trên đòi hỏi mỗi học sinh phải học tập và hình thành dần dần những kỹ xảo đó trên nhiều môn học như: Tự nhiên xã hội - Âm nhạc – Toán - Tiếng Việt - Đạo đức - Thủ công (kỹ thuật), … Mỗi môn có một vai trò, nhiệm vụ riêng giúp các em hình thành các kỹ năng, kỹ xảo đó. Chiếm một trong những vai trò quan trọng phải kể đến môn Tiếng Việt ở các lớp học nói chung và lớp 5 nói riêng nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển những kỹ năng cơ bản như: nghe - nói – đọc - viết. Riêng môn Tiếng Việt ở lớp 5 có những yêu cầu cao hơn ở lớp 4, mở rộng hơn và bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.
Muốn đạt được điều đó các em phải biết đọc thành thạo có nghĩa là: đọc đúng các từ, cụm từ, câu, đoạn, bài của văn bản hay thơ. Đây là nền tảng để các em học tốt các môn học khác và để làm tốt được tất cả những điều trên thì phân môn Tập đọc ở Tiểu học đảm nhiệm vai trò này. Nội dung, yêu cầu của phân môn Tập đọc ở mỗi lớp là khác nhau. Nó được nâng cao, mở rộng các lớp trên theo quan điểm dạy học hình xoáy trôn ốc.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp giáo viên dạy tốt môn Tập đọc Lớp 5

ất đánh giá câu trả lời của học sinh mà giáo viên còn tạo điều kiện cho các em tự đánh giá và nhận xét lẫn nhau. Qua bài tập đọc học sinh còn được làm quen, tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, với sáng tạo, biết phân tích các chi tiết tiêu biểu về mặt nội dung và nghệ thuật của văn bản. Trong khi giảng, giáo viên có thể hỏi: “Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì?”. Trong một bài tập đọc tác giả có thể sử dụng một số biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh từ đó các em học được cách viết khi dùng từ, đặt câu và viết văn thêm sinh động tạo điều kiện cho các em làm văn tốt hơn. Ví dụ: Khi tả về ngôi nhà trong bài thơ “Về ngôi nhà đang xây” của Đồng Xuân Lan sách Tiếng Việt 5, tập I, trang 148. Tác giả đã dùng những biện pháp nhân hóa để làm cho ngôi nhà được miêu tả gần gũi, sống động. Ngôi nhà tựa vào nền trời sẫm biếc Thở ra mùi vôi vữa nồng hăng Nắng đứng ngủ quên Trụ bê tông nhú lên Qua đây các em học được các biện pháp nhân hóa trong giờ tập đọc để sử dụng khi viết văn. Qua bài tập làm văn viết ở tuần 10. Với đề bài “Em hãy tả lại một cảnh đẹp ở quê hương em”. Có em đã viết về quê hương mình với hình ảnh cây đa quê hương như sau: “Cây đa đứng sừng sững ở đầu làng. Nhìn từ xa, những tán cây xòe ra như những cái ô khổng lồ xanh mát chỉ có vài chiếc rễ nổi lên bò ngoằn ngoèo như những chú hổ mang, gốc cây phình to ra như một chàng đô vật” cách tả như vậy làm cho bài văn thêm sinh động, hấp dẫn. Song song với việc giáo viên cho học sinh tìm hiểu những chi tiết, hình ảnh thể hiện giá trị nghệ thuật của bài thì giáo viên còn giúp học sinh hiểu rõ được nội dung bài một cách sâu sắc. Ở mỗi bài thường có các đoạn, đối với học sinh ở lớp 5 là phải tìm ý chính của đoạn đó rồi sau mỗi đoạn giáo viên phải có tiểu kết đoạn để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Giáo viên có câu hỏi hoặc lời dẫn dắt để chuyển sang ý tiếp theo khiến bài giảng không bị đứt đoạn mà có hệ thống logic. Ví dụ: Khi dạy bài “Tiếng rao đêm” giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm đoạn 1,2 và trả lời câu hỏi: “Trong đêm vắng tác giả nghe thấy tiếng gì?”, “Nghe tiếng rao của người bán bánh giò tác giả cảm thấy như thế nào?”, “Đám cháy xảy ra vào lúc nào?” sau khi học sinh trả lời câu hỏi, thì giáo viên cần chốt lại và dùng câu chuyển tiếp để chuyển ý sang đoạn 3: “Trong đêm khuya thanh vắng nằm nghe tiếng rao của người bán bánh giò rồi có tiếng kêu cứu cháy nhà khi mọi người chạy ra đã thấy một bóng người khập khiễng chạy tới ngôi nhà cháy. Vậy người đó là ai? Con người và hành động của anh có gì đặc biệt? Chúng ta cùng tìm hiểu tiếp ở đoạn 3 nhé.”. Trong 1 tiết tập đọc giáo viên có thể sử dụng hai hình thức là: đọc thầm và đọc thành tiếng. Hình thức đọc thành tiếng tôi áp dụng vào lúc luyện đọc đúng cho học sinh. Hình thức đọc thầm tôi áp dụng vào lúc này - lúc tìm hiểu bài. Giáo viên yêu cầu đọc thầm để tìm câu trả lời cho câu hỏi đó. Đây là hình thức lâu nay trong các nhà trường chưa được coi trọng đúng mức. Hình thức đọc thầm nhằm hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng, kỹ xảo, đọc thầm là kỹ xảo mà mỗi con người sẽ sử dụng trong suốt cuộc đời. Về mối quan hệ giữa đọc đúng (đọc thành tiếng) và đọc thầm thì đọc thành tiếng là cơ sở cho việc đọc thầm. Đọc thành tiếng là hình thức yêu cầu đọc thấp, đọc thầm là hình thức yêu cầu đọc cao hơn. Đọc thầm giúp học sinh dễ cảm nhận nội dung bài học. Vì vậy trong các bước của giờ tập đọc không nên bỏ qua bước đọc thầm này. Từ việc hiểu tầm quan trọng của hình thức đọc thầm này nên tôi đã áp dụng vào lúc tìm hiểu bài. Trước khi yêu cầu học sinh đọc thầm tôi đưa ra câu hỏi, giao nhiệm vụ cho các em đọc thầm và tìm câu trả lời cho câu hỏi đó như: - Em hãy tìm một tên khác cho truyện em vừa đọc? Làm như vậy các em mới tập trung vào việc đọc thầm và tự giác đọc thầm không cần giáo viên nhắc nhở. 2.6. Giáo viên hướng dẫn đọc diễn cảm, đọc thuộc lòng: Trong một giờ tập đọc thì khâu luyện đọc diễn cảm sau khi luyện đọc đúng, tìm hiểu bài là phù hợp, hợp lý bởi các em có đọc đúng văn bản, hiểu văn bản và từ đó các em có thể tự mình xác định được giọng đọc cho bài thơ cho văn bản đó. Có nhiều cách tổ chức luyện đọc diễn cảm cho học sinh như: - Cách 1: Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi để tìm ra những từ ngữ, cụm từ đọc diễn cảm như: “Em hãy tìm những từ ngữ gợi tả, gợi cảm trong đoạn văn, đoạn thơ?” Khi các em tìm được cũng có nghĩa là các em đã xác định được giọng đọc mà giáo viên yêu cầu hoc sinh: “em hãy đọc cụm từ đó theo đúng thái độ tình cảm của tác giả?” - Cách 2: Giáo viên yêu cầu học sinh phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật (tốt, xấu, người già, trẻ em) Ví dụ: trong bài “ Lòng dân” Tiếng Việt 5, tập 1 học sinh phải đọc được giọng của tên Cai hống hách, xấc lược khác với giọng của dì Năm tự nhiên bình tĩnh giả vờ nghẹn nghào. Giọng của An thật thà hồn nhiên. Khi học sinh xác định được giọng đọc rồi giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đọc theo vai hoặc nhóm 4 bạn và thi đọc giữa các nhóm. Việc làm này vừa tìm ra được những em học sinh có giọng đọc hay, vừa giúp các em hưng phấn trong khi đọc giúp tiết học nhẹ nhàng, hiệu quả. Đối với những bài tập đọc có yêu cầu đọc thuộc khi học sinh đã xác định được giọng đọc của bài. Giáo viên tổ chức cho học sinh thi đọc thuộc ngay đoạn đó. Giáo viên có thể yêu cầu các em học thuộc bài thơ dưới dạng 1 trò chơi “đọc thơ truyền điện”. Ví dụ: Yêu cầu học sinh đọc bài thơ “Ê – mi – li, con” giáo viên yêu cầu học sinh tự đọc nhẩm khổ thơ 3,4 trong sách giáo khoa, sau đó nhìn vào 1 số từ ngữ (điểm tựa) đứng đầu mỗi câu do giáo viên ghi bảng. Giáo viên là người đọc thuộc dòng thơ thứ nhất sau đó chỉ định một học sinh bất kỳ đọc dòng thơ thứ 2 (yêu cầu học sinh gấp sách giáo khoa lại). Em đó lại chỉ bạn đọc dòng thơ thứ 3, cứ như vậy cho đến hết bài. Đó là hình thức tôi thường áp dụng với học sinh yếu của lớp mình. Còn đối với học sinh khá giỏi tôi yêu cầu học sinh tự nhẩm học thuộc lòng các khổ thơ hay đoạn văn theo chỉ định trong sách giáo khoa.). Trên đây là những hình thức tổ chức hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm và đọc thuộc lòng mà tôi đưa ra và áp dụng cho lớp mình. Còn tùy thuộc vào từng bài cụ thể mà mỗi giáo viên áp dụng hình thức đọc diễn cảm, đọc thuộc lòng là phù hợp nhất cho đối tượng học sinh của lớp mình. Để các em có những tiết học thật thoải mái và hiệu quả. Tóm lại qua giờ tập đọc học sinh được làm quen với ngôn ngữ văn học, sáng tác văn học, cách dùng từ đặt câu tạo cho các em những rung cảm thẩm mỹ. Giáo dục cho các em những tình cảm trong sáng tốt đẹp. Là cửa ngỏ để các em đi đến việc cảm thụ văn học. Trong phân môn Tập đọc kỹ năng đọc không thể tách rời với kỹ năng tìm hiểu bài mà chỉ có thể đồng nhất với nhau. Học sinh có thể hiểu nội dung bài thì mới có thể đọc đúng, đọc hay. Việc đọc đúng, đọc hay lại nâng đọc hiểu lên một mức cao hơn là cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn chương. Phân môn Tập đọc 5 luôn gắn bó chặt chẽ qua quá trình đọc và quá trình hiểu. Qua sự hướng dẫn của giáo viên sau mỗi bài học các em đều nhận biết được các ý: - Nhận biết được chủ điểm, cấu trúc của bài đọc. - Biết cách tóm tắt bài, làm quen với thao tác đọc lướt tìm ý. - Phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản. 3. Sau đây tôi xin trình bày một giáo án cụ thể để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo. Bài dạy: Lòng dân I. Mục tiêu: 1. Biết đọc đúng văn bản kịch: ngắt giọng, thay đổi giọng phù hợp với tính cách của từng nhân vật trong tình huống kịch. 2. Hiểu được nội dung, ý nghĩa: Ca ngợi dì Năm dũng cảm, mưu trí lừa giặc, cứu cán bộ cách mạng. ( Trả lời được các câu hỏi trong bài) 3. Học sinh khá giỏi biết đọc diễn cảm vở kịch theo vai, thể hiện được tính cách nhân vật. II. Đồ dùng dạy học: Giáo viên chuẩn bị bảng phụ viết câu, đoạn cần đọc. III. Các hoạt động dạy và học: Kiểm tra bài cũ: - Gọi học sinh nối tiếp nhau đọc thuộc bài thơ “ Sắc màu em yêu” Và trả lời câu hỏi. . Em thích hình ảnh nào trong 4 khổ thơ đầu? Vì sao? . Tại sao bạn nhỏ lại nói “ Em yêu tất cả sắc màu Việt Nam”? . Nêu nội dung bài thơ? Nhận xét ghi điểm học sinh. Dạy học bài mới: -GV giới thiệu bài ghi bảng a. Luyện đọc. - GV đọc mẫu: Đây là vở kịch giáo viên cần đọc mẫu, định hướng cho HS cách đọc để phân biệt được tên nhân vật với lời nói của nhân vật. - Gọi 1 HS đọc chú giải. - Theo em vở kịch có thể chia thành mấy đoạn? - GV chốt ý – chia đoạn. Gọi HS nối tiếp đọc từng đoạn của vở kịch. GV chú ý sửa lỗi phát âm, ngắt giọng cho từng HS (nếu có) Giải thích từ ngữ mà HS các vùng miền khác nhau chưa hiểu hết nghĩa. Ví dụ: . lâu mau: lâu chưa . lịnh : lệnh . tui : tôi . con heo : con lợn - Luyện đọc trong nhóm: - Tổ chức thi đọc trước lớp. b. Tìm hiểu bài: - Tổ chức cho HS đọc thầm toàn bài – thảo luận trong nhóm 2 các câu hỏi trong SGK . + Câu chuyện xảy ra ở đâu? Vào thời gian nảo? + Chú cán bộ gặp chuyện gì nguy hiểm? + Dì Năm đã nghĩ ra cách gì để cứu chú cán bộ? + Qua hành động đó bạn thấy dì Năm là người như thế nào? + Chi tiết nào trong đoạn kịch làm cho em thích thú nhất? Vì sao? + Vở kịch cho ta biết điều gì? C. Đọc diễn cảm: + Vở kịch có mấy nhân vật? Đó là những nhân vật nào? + Yêu cầu HS nêu giọng đọc của từng nhân vật? + Tổ chức luyện đọc trong nhóm. + Tổ chức thi đọc: + Gọi 5 HS đọc đoạn kịch theo vai. GVcùng HS theo dõi, tìm giọng đọc phù hợp với tính cách của từng nhân vật. - HS lắng nghe - HS theo dõi – lắng nghe 1 HS đọc chú giải – cả lớp theo dõi. HS tự chia đoạn: . Đoạn 1: Anh chị kia! Thằng này là con. . Đoạn 2: Chồng chị à? Rục rịch tao bắn. . Đoạn 3: Trời ơi! đùm bọc lấy nhau 4 HS nối tiếp nhau đọc, 1 HS đọc lời gioi thiệu. 3 HS nối tiếp đọc từng đoạn kịch ( đọc 2 lượt) - HS nối tiếp đọc từ ngữ chưa hiểu. - HS đọc trong nhóm 2 ( 2 vòng) - 2, 3 nhóm thi đọc . - HS đọc thầm TLCH -Câu chuyện xảy ra ở một ngôi nhà nông thôn Nam Bộ trong thời kì kháng chiến. - Chú bị địch rượt bắt. Chú chạy vô nhà của dì Năm. Dì vội đưa cho chú một chiếc áo khác để thay, rồi bảo chú ngồi xuống chõng ăn cơm, vờ như chú là chồng dì để địch không nhận ra. Dì Năm rất nhanh trí, dũng cảm lừa địch. 3- 5 HS phát biểu. Ca ngợi dì Năm dũng cảm mưu trí cứu cán bộ. - Vở kịch có 4 nhân vật : An; Chú cán bộ; Lính; Cai. HS phát hiện và nêu. Luyện đọc nhóm theo vai. - 3 nhóm thi đọc. Củng cố – dặn dò: Yêu cầu học sinh về nhà tiếp tục soạn phần 2 của vở kịch. Nhận xét tiết học. KẾT QUẢ: Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và tôi rút ra một số kinh nghiệm cho đề tài “Một số kinh nghiệm để giúp giáo viên dạy tốt phân môn Tập đọc 5” Trong việc đổi mới phương pháp dạy tập đọc qua 2 khâu chính là luyện đọc và hướng dẫn học sinh cảm thụ văn học. Tôi thấy kinh nghiệm này có hiệu quả rõ rệt. Sau đây là kết quả tổng hợp mà tôi đã khảo sát được qua đợt kiểm tra cuối học kỳ I dưới hai hình thức đọc và cảm thụ: Với đề bài: Bài: Cô giáo và hai em nhỏ Đọc 2 đoạn của bài (2 phút) Đọc thầm và trả lời câu hỏi. a. Hoàn cảnh của Nết có gì đặc biệt? ¨ a) Đôi chân bị tật, không đi được. ¨ b) Bị tật bẩm sinh ở bàn chân phải. ¨ c) Bị tật bẩm sinh và càng lớn đôi chân càng teo đi. Bé Na là một cô bé: ¨ a) Chăm chỉ học hành. ¨ b) Thương chị, yêu mến cô giáo. ¨ c) Tất cả các ý nêu trên. c. Cô giáo đã làm những gì để giúp Nết? ¨ a) Dạy học, tổ chức quyên góp tặng Nết một chiếc xe lăn. ¨ b) Dạy học và xin ba mẹ Nết cho em đến trường. ¨ c) Dạy học, kể chuyện về Nết với học trò, xin cho Nết vào học lớp 2. Bài văn thuộc chủ đề nào mà em đã học: ¨a) Con người với thiên nhiên. ¨ b) Con người với xã hội. ¨ c) Vì hạnh phúc con người. ¨ d) Hãy giúp đỡ mọi người. Lớp Sĩ số Đọc Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % 5/1 37 15 40,5% 16 43.3% 6 16,2% 0 0 5/2 36 8 22,2% 17 47,2% 11 30,6% 0 0 Lớp Sĩ số Cảm thụ Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % 5/1 37 15 40,5% 17 46,0% 5 13,5% 0 0 5/2 36 8 22,2% 17 47,2% 11 30,6% 0 0 Nhìn vào bảng kết quả tôi nhận thấy: Lớp 5/1 của tôi tỉ lệ học sinh khá, giỏi tăng cao hơn so với tỉ lệ khá, giỏi của lớp 5/2. Tỉ lệ học sinh trung bình ít đi và không có học sinh yếu. C. KẾT LUẬN I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Muốn đạt được kết quả cao trong quá trình giảng dạy phân môn Tập đọc 5 nói riêng và phân môn Tập đọc các lớp khác nói chung không phải là khó song cũng không đơn giản một chút nào. Mỗi giáo viên khi dạy cần phải chú ý đến những điểm sau: - Coi trọng việc đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm của học sinh. - Giáo viên không biến giờ tập đọc thành giờ giảng văn. - Giáo viên tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc khi dạy học. Giáo viên không cảm thụ hộ học sinh, không bắt buộc học sinh đọc một cách mà giáo viên đưa ra. Ngoài ra giáo viên còn giúp học sinh khơi gợi cảm xúc, ý tưởng độc đáo của các em để các em tự tìm ra cách đọc. - Giáo viên nên tránh các qui tắc máy móc, mệnh lệnh khô khan như: Ngồi thẳng lên, khoanh tay, tránh làm cho học sinh sợ sệt, không có một nụ cười. Mà giáo viên cần tạo ra không khí vui tươi, thoải mái trong giờ tập đọc. - Giáo viên phải có trình độ ngôn ngữ, kiến thức văn học, một vốn sống nhất định, một giọng đọc hay có tác dụng làm mẫu cho học sinh. - Muốn đạt được kết quả cao trong quá trình dạy học người giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian, tâm huyết, sự kiên trì bền bỉ cộng thêm với sự nghiêm túc và nỗ lực, yêu nghề, mến trẻ, thật sự muốn các em đọc đúng, đọc hay và hiểu được nội dung văn bản thì sẽ đạt được kết quả như mong muốn. II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT: - Để thuận tiện cho việc giảng dạy của giáo viên, tôi có một số ý kiến sau: Đối với cấp trên: - Tổ chức nhiều chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học” hơn nữa cho giáo viên cùng học tập. - Giúp giáo viên tiếp cận với giáo án điện tử nhanh và hiệu quả. - Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh. Đối với giáo viên: - Thường xuyên tìm tòi và học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, nghiên cứu các tài liệu dạy học để nâng cao tay nghề. - Thường xuyên kiểm tra đánh giá việc đọc của học sinh và ghi nhận kết quả của các em hay một tiến bộ rất nhỏ. Đối với phụ huynh: - Mua đủ sách giáo khoa cho các em, động viên khuyến khích các em đọc thêm truyện, báo - Thường xuyên quan tâm tới việc học ở nhà của các em. - Kết hợp chặt chẽ với nhà trường để tạo điều kiện cho các em học tập tốt hơn. Trên đây là một số kinh nghiệm để dạy tốt phân môn Tập đọc lớp 5 mà tôi đã nghiên cứu, tìm tòi và đã áp dụng vào thực tế giảng dạy trong nhiều năm học qua và đạt hiệu quả rất cao. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo cùng các bạn đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi chân thành cảm ơn! Minh Hoà, ngày 01/02/2012 Người viết Phạm Thị Kim Xuyến NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GIÁO DỤC MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài trang 1 II. Đối tượng nghiên cứu trang 5 III. Phạm vi nghiên cứu trang 5 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Biện pháp thực hiện trang 6 II. Kết quả trang 21 C. KẾT LUẬN I. Bài học kinh nghiệm trang 23 II. Ý kiến đề xuất trang 23
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_giup_giao_vien_day_tot_mon_tap_doc_lop.doc