Sáng kiến kinh nghiệm Dạy Tập làm văn Lớp 3 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng tổng hợp từ nhiều phân môn khác như: Học Vần, Tâp viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu... Để làm được một bài văn học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng: “ Nghe, nói, đọc, viết “. Phải vận dụng những kiến thức về tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tạo lập văn bản, trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ năng nói, viết, cách hành văn cho học sinh. Điều này đòi hỏi phân môn Tập làm văn này phải có nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất là giúp cho học sinh sau quá trình luyện tập lâu dài có ý thức nắm được cách viết và cách nói sáng tạo các văn bản theo nhiều phong cách khác nhau. Thứ hai là phân môn này góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy hình thành nhân cách cho học sinh. Còn nhiều nhiêm vụ khác nữa nhưng tôi chỉ nêu hai nhiệm vụ tôi coi là quan trọnh nhất.
Tóm lại: Dạy phân môn Tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực, sáng tạo, chủ động học tập, biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện hỗ trợ cho việc dạy Tập làm văn được tốt hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy Tập làm văn Lớp 3 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới

” tập làm văn tuần 1: Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa... Học sinh kể nội dung câu chuyện như sau: Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả lời : - Để tôi giấu cái cày vào bụi đã. Về nhà bác liền bị vợ trách: - Ông giấu cái cày mà hét to thế, kẻ gian biết chỗ nó lấy mất cái cày thì sao. Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên cái cày bị mất.Bác ta liền chạy một mạch về nhà, nói thầm vợ: - Nó lấy mất cái cày rồi. Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau(kể cho nhau nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê phán hóm hỉnh, hài hước và kể lại nội dung câu chuyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ gây cười ở ngưòi nghe, nét mặt phù hợp, nâng tính kịch tính câu chuyện lên cao hơn. Song song với việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói học sinh rèn kĩ năng viết: Nắm kĩ thuật viết, luận viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văncủa học sinh không đơn thuần là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, đánh giá, thái độ yêu – ghét, trân trọng hoặc phê phán các em. Thông qua bài viết của các em về một vấn đề nào đó. Bổ trợ cho việc rèn kĩ năng nghe – nói trong tiết tập làm văn, phần kể chuyện của tiết tập đọc kể chuyện cũng chú trọng rèn kĩ năng giao tiếp. Ví dụ: Dạy tập đọc kể chuyện tiết 2. bài đất quý đất yêu tuần 11: Nhiệm vụ của học sinh là: Quan sát tranh, sắp xếp tranh theo trình tự nội dung câu chuyện Đất quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể lại câu chuyện đúng nội dung, ngắn gon, từ ngữ xúc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử chỉ điệu bộ để câu chuyện thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được phong tục tập quán của người Ê-ti-ô-pi-a: Họ coi đất đai là thứ thiên liêng, cao quý nhất. thông qua kể lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện khả năng diễn đạt, phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn. Tóm lại: Học sinh rèn kĩ năng quan sát, nói-viết, rút ra những nét diển hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của mỗi vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý thức giữ gìn, xây dựng quê hương đất nước. Ngoài ra, mỗi giáo viên cần chú trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan diểm giao tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và có nhu cầu thể hiện, bày tỏ cảm thụ đó với người khác. Như vậy, Mỗi bài nói bài viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn-yêu cái hay cái đẹp, yêu tiếng Việt-giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. 3. Tổ chức tốt việc quan sát, hướng dẫn học sinh cách dùng từ,giọng kể, điệu bộ khi làm văn nghe- nói-viết. Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn trong việc nghe-nói-viết-kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh, nội dung thể hiện của tranh. học sinh cảm nhận được nét đẹp của cảnh vật, con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô. Để làm tốt hoạt động này, trước hết giáo viên chú ý cho học sinh sử dụng gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể,để nhớ được các ý chính của nội dung câu chuyện. Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần hướng cho các em cách chon lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh diễn đạt sao cho dễ hiểu, sinh động. Có như vậy người nghe đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm bắt được sự việc,nhất là tình cảm của các em muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Người nghe, người đọc tuy không trược tiếp nhìn diện mạo của nhân vật, xem bối cảch của sự việc qua hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá của các em. Đó chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Ví dụ: Dạy tập làm văn tuần 12. Cụ thể ở bài tập 2: yêu cầu học sinh viết đoạn văn quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta. Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về mmột cảnh đẹp ở nước ta, Giúp học sinh nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chon từ ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe-đọc tuy không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học sinh nói đến. Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như: Điệu bộ, nét mặt, giọng điệu của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với người nghe. Do đó, giáo viên cũng cần khuyến khích các em rèn luyện khả năng sử dụng những yếu tố phi ngôn ngữ này. 4. sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm văn theo hướng đổi mới. Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập một cách chủ động và tích cực. Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: Học sinh thảo luận nhóm, đàm thoại với nhau hoặc với chính các thầy cô, hoặc hoạt động các nhân (độc thoại) về một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: Đóng các hoạt cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức,... Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác “học mà chơi, chơi mà học”. Không khí học tập thoải mái khiến học sinh mạnh dạng, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ hiểu. So sánh với phương pháp dạy tập làm văn lớp 3 truyền thống: Mỗi tiết tập làm văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề tài thuộc một thể loại văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. tiết học diễn ra theo tiến trình: Giáo viên hướng dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa ra các câu hỏi gợi ý... khiến cho học sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo khuôn mẫu không khuyến khích được học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá, sự miêu tả của chính các em. Trong chương trình sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: Nghe-nói, nói- viết, nghe-nói-viết... Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy nhưng linh hoạt, chủ động hổntng cách tổ chức hoạt động dạy-học, phân bổ thời gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Ví dụ: Tiết tập làm văn (tuần 11) với hệ thống bài tập như sau: Bài 1: Nghe kể lai câu chuyện “tôi có đọc đâu”. Yêu cầu học sinh nghe và kể lại câu chuyện. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học: - Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuỵên - Thảo luận theo nhóm, theo cặp, học sinh dựa vào gợi ý sách giáo khoa, tranh và việc nghe giáo viên để kể lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe. - Đại diện từng nhóm kể trước lớp. - Học sinh nhận xét, bổ sung, cho điểm. Cách tổ chức các hình thức hoạt đông nêu trên huy động được tất cả học sinh tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa từng học sinh với nhau, và giữa các nhóm học sinh. Bài 2: Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở. Yêu cầu học sinh làm việc cá nhân với vở bài tập. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học sau: - Cá nhân học sinh làm trong vở bài tập. - Học sinh nhận xét bài làm của bạn. - Giáo viên nhận xét, bổ sung, cho điểm. Tóm lại ở hai bài tập này giáo viên nên sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới, tạo được hứng thú cho học sinh, học sinh tham gia các hoạt động hcj một cách hào húng, tích cực, sáng tạo. Ví dụ 2: Tiết Tập làm văn (tuần 22) với hệ thống bài tập. Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết. - Giáo viên cho hoc sinh làm việc cá nhân (làm trong vở bài tập). - Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc. - Sau khi thống nhất các em cử đại diện nhóm lên trình bày. - Học sinh các nhóm khác nghe nhận xét, bổ sung. Bài 2: Viết những điều mà em vừa kể vào đoạn văn. - Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp. Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện viết đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học trong dạy tập làm văn và nhiệm vụ cần thiết. 5. Dạy học hướng vào học sinh và chú trọng các hình thức dạy học cá nhân . Dạy Tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra một câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ và hiểu biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng những vốn tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra với vấn đề đặt ra trong câu hỏi ; phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra những kết luận, phương án trả lời tốt nhất. Nói ngắn gọn lại: Học sinh tìm câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và phân tích dữ kiện. Ví dụ: Dạy Tập làm văn tuần 5. Có bài tập như sau : Tập tổ chức cuộc họp. - Học sinh chọn nội dung cuộc họp cho phù hợp. - Xác định mục đích cuộc họp, nguyên nhân cuộc họp. - Người điều hành cuộc họp thống nhất ý kiến, thống nhất phương án giải quyết vấn đề, giao việc cho từng thành viên. Như vậy, thông qua một số tiết Tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng tạo của học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh làm bài. 6. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các hoạt động ngoài khoá giúp học sinh có những hiểu biết ngoài kiến thức được học trong chương trình chính khoá. Do đó việc phối kết hợp với các hoạt động ngoài gìơ lên lớp rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ, học sinh được rèn luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan đến bài học của các em. Giáo viên giảng dạy cần có sự phối kết hợp chặc chẽ với giáo viên tổng phụ trách, thông qua các buổi chào cờ nói về gương người tốt việc tốt, tổ chức các hoạt động: Thi búp măng xinh, thi cac múa hát tập thể, tập diễn các tiểu phẩm, thi kể chuyện-văn nghệ, đọc thơ, thi các môn năng khiếu,... Hoặc thông qua các buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những kỉ niệm đẹp của các em về ngày đàu tiên đi học (bài học tuần 6)... Hay qua các buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ Chí Minh, giúp các em viết tốt hơn đơn xin vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ chức của Đội ... Ví dụ: Tham dự hội thi tim hiểu về Đội .Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí Minh, Giúp các em viết tốt hơn đơn xin vào đội (tiết Tập làm văn tuần 2), vÓi yêu cầu: Em hãy viết đơn xin vào đội với mẫu in sẵn. 7. Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới ở tất cả các khối lớp . Nội dung kiến thức chương trình sách giáo khoa mới biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, nâng cao cao dần về mức độ và lượng kiến thức qua từng lớp học. Do đó để đạt được hiệu quả tốt trong giảng dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới cần thực hiện đồng bộ viẹc đổi mới phương pháp ở tất cảc các khồi lớp trước (lớp 1-2) và đựoc tiếp theo ở lớp 4-5.Cụ thể: Dạy học sinh tập nói thành câu, nói theo chủ đề, nội dung, nhìn tranh nói thành câu. Đối với lớp 2: Dựa trên nền tảng kiến thức mà các em đã học được ở lớp 1, nâng cao mức độ vừa phải: Kể lại câu chuyện đã học, nói - viết thành câu, đưa ra các mẫu câu (ai làm gì? Ai như thế nào? ...), viết đoạn văn từ 2-3 câu. Đối với lớp 3: Luyện nghe, luyện nói, luyên viết: mẫu câu rộng, bao quát hơn; yêu cầu về câu cao hơn, câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh, nhân hoá, câu văn giàu hình ảnh. Đặc biệt phần luyện viết với số lượng câu văn tăng lên (5-7 câu), đã chú ý đến kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc trong câu văn, đoạn văn. Đối với lớp 4: Học sinh luyện nói câu chuyện đã nghe, đã đọc, xây dựng cốt truyện có nhân vật, kể chuyện dựa trên cốt chuyện có sẵn hoặc tưởng tượng; luyện viết: câu thành phần phụ, sử dụng biện pháp tu từ, nhân hoá theo nhiều kiểu khác tiến tới viết thành bài văn. Đối với họ sinh lớp 5: học sinh luyện nói hoàn chỉnh về câu (câu ghép, các kiểu câu ghép) sử dụng nhiều biện pháp tu từ trong bài viết, viết thành bài văn hoàn chỉnh với số lượng câu tuỳ theo bố cục nội dung bài. Học sinh biết bộc lộ cảm xúc khi tả, kể, viết. Tóm lại: Kiến thức ở các lớp có một mối liên hệ logic: Kế thừa, mở rộng, nâng cao. Do đó muốn dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới còn phải đổi mới tất cả các khối lớp. V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Tôi rút rra một số kinh nghiêm sau: - Dạy Tập làm văn thao phương pháp “ tích hợp - lồng ghép” các phân môn trong môn Tiếng Việt. Biết kết hợp chặc chẽ mối quan hệ về yêu cầu kiến thức phân môn Tập làm văn của các khối lớp. - Chú trọng phương pháp dạy học theo quan điiểm giao tiếp, rèn kĩ năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh. - Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ, giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu. - Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm tòi. - Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. - Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi học sinh là chủ thể hoạt động, tổ chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh tri thức và rút ra kết luận phù hợp với bài học. - Giáo viên biết cách phối hợp hoạt đông học tập với các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Trên đây là những bài học được rút ra trong quá trình nghiên cứu của tôi C. PHẦN KẾT LUÂN. Qua quá trình nghiên cứu đề tài, tôi nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của dạy môn Tập làm văn. Vì vậy, tôi dùng lại ở khối 3 mà tìm hiểu nhằm sau này có điều kiện sẽ áp dụng, xây dựng tích hợp các kiến thức liên quan với nhau giữa các môn học . Thông qua thử nghêm theo hướng trên, tôi đã thu rất nhiều kinh nghiệm và có kết quả : học sinh thích thú hơn, mạnh dạng hơn, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn giàu hình ảnh,... Nhờ thế tôi rút ra được một số kinh nghiệm là: Phương pháp dạy học Tập làm văn chủ yếu trong giai đoan hiện nay là phải hướng cho học sinh cách tự học sáng tạo tri thức, phần lớn là cho học sinh tìm tòi, thực hành, luyện tập là chủ yếu. không nên dạy học một cách khuôn khổ như cách dạy và học lúc trước, giáo viên phải tạo điều kiện tối đa cho học sinh phát huy khả năng của mình mà không đi lệch hướng. Theo chương trình mới thì chúng ta phải lấy học sinh làm trung tâm cho hoạt động dạy và học, Người giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau như: hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khoá ... Để thực hiện tốt phương pháp dạy học cho học sinh thi còn nhiều điều cần phải nghiên cứu nhằm đáp ứng cho sự chuyển biến của xã hội những gì xã hội cần đặc biệt là học sinh lứa tuổi này. Tuy nhiên không có gì là hoàn thiện, nên đề tài tôi nghiên cứu cũng không tránh khỏi điều này, nó chỉ áp dụng được ở những nơi mà học sinh có đủ điều kiện phát triển. Chính vì vậy chúng ta cần phải chú trọng đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh ở từng vùng miền khác nhau khi dạy phân môn Tập làm văn. Đây là vấn đề khó khăn cho việc dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_day_tap_lam_van_lop_3_nhu_the_nao_de_d.doc